Bản án 32/2019/HNGĐ-PT ngày 11/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-PT NGÀY 11/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 11/10/2019 tại Trụ sở tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2019/TLPT-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình –ly hôn”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 08/2019/HNGĐ–ST ngày 25 tháng 6 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Tân Hồng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 34/2019/QĐ-PT ngày 09 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm T, sinh năm 1995;

Địa chỉ: khóm A, thị trấn A, huyện Tân Hồng, Đồng Tháp.

- Bị đơn: Ông Lâm Quang D, sinh năm 1992;

Địa chỉ: khóm A, thị trấn A, huyện Tân Hồng, Đồng Tháp.

(Các đương sự có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 14/3/2019; biên bản hòa giải đoàn tụ không thành ngày 14/4/2019 và tại phiên toà chị Nguyễn Thị Cẩm T trình bày: Vào năm 2013, chị T và anh D có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Sa Rài ngày 16-4-2014. Trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 người con chung tên Lâm Quang Hoàng N, sinh ngày 25-10-2014. Cuộc sống giữa chị T và anh D thời gian đầu rất hạnh phúc, nhưng đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn do anh D rất khó khăn trong vấn đề chi tiêu tài chính và có nhiều lần anh D có động thái xúc phạm và gây bạo hành với chị T, nên chị T đã ly thân với anh D từ tháng 3-2019 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nữa, tiếp tục chung sống với nhau không còn hạnh phúc. Nay chị T làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng giải quyết những vấn đề sau:

+ Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Cẩm T xin ly hôn với anh Lâm Quang D.

+ Về con chung: Chị Nguyễn Thị Cẩm T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Lâm Quang Hoàng N, sinh ngày 25-10-2014, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Nhưng tại buổi hòa giải ngày 17-4-2019, chị T thống nhất giao con chung tên Lâm Quang Hoàng N, sinh ngày 25-10-2014 cho anh D nuôi dưỡng (hiện cháu Nam đang sống với anh D).

+ Về cấp dưỡng: Chị Nguyễn Thị Cẩm T không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại văn bản ý kiến đề ngày 17/4/2019; biên bản hòa giải đoàn tụ không thành ngày 14/4/2019 và tại phiên tòa anh Lâm Quang D trình bày: Anh D thống nhất theo lời trình bày của chị T là năm 2013, chị T và anh D có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Sa Rài ngày 16-4-2014. Trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 người con chung tên Lâm Quang Hoàng Nam, sinh ngày 25-10-2014. Anh thừa nhận vào năm 2015 có đánh đập chị T dẫn đến chị T phải nhập viện điều trị nhưng từ thời gian đó đến nay đã không còn đánh chị T nữa. Từ thời gian ly thân từ tháng 3 -2019 đến nay thì anh D có hàn gắn tình cảm nhưng chị T cương quyết không về hàn gắn tình cảm. Nay qua yêu cầu của chị T, anh D có ý kiến như sau:

Về hôn nhân: Anh D không thống nhất ly hôn với chị T, vì còn thương vợ thương con.

Về con chung: Anh D thống nhất tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Lâm Quang Hoàng Nam, sinh ngày 25-10-2014 (hiện cháu Nam đang sống với anh D).

Về cấp dưỡng: Anh D không yêu cầu chị T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại quyết định bản án sơ thẩm số 08/2019/HNGĐ-ST ngày 25 tháng 6 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Tân Hồng đã tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm T.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Cẩm T và anh Lâm Quang D được ly hôn.

2. Về con chung: Anh Lâm Quang D tiếp tục được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu tên Lâm Quang Hoàng N, sinh ngày 25-10-2014 (hiện cháu Nam đang sống với anh D). Chị Nguyễn Thị Cẩm T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng: Anh Lâm Quang D không yêu cầu chị T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T cũng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5. Về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số: 0007972 ngày 19-3- 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp; chị Nguyễn Thị Cẩm T đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Anh Lâm Quang D không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên thời hạn, quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/7/2019, anh Lâm Quang D kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Lâm Quang D vẫn giữ kháng cáo, không đồng ý ly hôn với chị T, anh không đồng ý ý kiến của chị T nói anh đánh chị T nhập viện điều trị và xác nhận của Uỷ ban nhân dân thị trấn Sa Rài ngày 31/5/2019.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh tại phiên tòa phúc thẩm phát biểu về tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đều chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; về nội dung, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng. Đối với phần kháng cáo về phần tài sản thì do cấp sơ thẩm chưa giải quyết nên cấp phúc thẩm không xem xét, giải quyết.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm; sau khi nghe ý kiến của các đương sự và quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của anh Lâm Quang D, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị Nguyễn Thị Cẩm T và anh Lâm Quang D có tổ chức đám cưới, chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Sa Rài vào năm 2015, chị T và anh D thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cự cải vả nhau, vợ chồng đã ly thân với nhau từ tháng 3/2019 đến nay, anh D có cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng chị T không đồng ý, Tòa án huyện Tân Hồng cũng đã nhiều lần mời chị T và anh D đến hòa giải đoàn tụ nhưng chị T cương quyết ly hôn. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, anh D yêu cầu được đoạn tụ hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị T cho rằng đã không còn tình cảm với anh D và yêu cầu Hội đồng xét xử cho chị được ly hôn với anh D. Còn anh D thì cũng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn của anh, chị ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử cho anh và chị T ly hôn là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Lâm Quang D.

[2] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo của anh Lâm Quang D, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Lâm Quang D, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 08/2019/HNGĐ-ST ngày 25 tháng 6 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Tân Hồng.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

[5] Về án phí phúc thẩm: Anh Lâm Quang D phải nộp 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, Điều 148; khoản 1, Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án,

1. Không chấp nhận kháng cáo của anh Lâm Quang D.

2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 08/2019/ HNGĐ–ST ngày 25 tháng 6 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Tân Hồng.

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Cẩm T đối với anh Lâm Quang D - Về con chung: Anh Lâm Quang D được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Quang Hoàng N, sinh ngày 25-10-2014. Chị Nguyễn Thị Cẩm T không phải cấp nuôi dưỡng nuôi con do anh D không có yêu cầu.

Chị Nguyễn Thị Cẩm T được quyền đến thăm nom, chăm sóc và con chung, không ai có quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng mà chị đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007972 ngày 19/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp.

- Về án phí phúc thẩm: anh Lâm Quang D phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà anh đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008162 ngày 11/7/2019 (đã nộp xong).

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp quyết định, bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-PT ngày 11/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về