TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU - TP ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 32/2018/HSST NGÀY 13/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 13 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 24/2018/TLST - HS ngày 13 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2018/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:
Phạm Văn T - sinh ngày: 07/3/1986 tại tỉnh Nam Định. Nơi ĐKNKTTrú: Thôn Thuận An, thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Chỗ ở hiện nay: Tổ 37 (90 cũ), phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ văn hóa: 12/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Phạm Văn Rồng và bà: Trương Thị Tuyền. Có vợ: Phạm Thị Thúy và có 02 con: Lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015.Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo tại ngoại, hiện có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Bà Nguyễn Thị Ngọc T1 - sinh năm: 1973; Địa chỉ: Tổ 37 (90 cũ), phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 31/5/2017, bà Nguyễn Thị Ngọc T1 điều khiển xe máy Airblade, biển kiểm soát 43D1-246.99 đến nhà Phạm Văn T để gặp chị Phạm Thị Thúy (là vợ của T). Khi bà T1 đi đến trước cửa nhà anh Phạm Hải thì dừng xe lại rồi đi bộ đến trước nhà và nhìn vào trong nhà T. Cùng lúc này, T dắt xe ra cổng chuẩn bị đi công việc thì nhìn thấy bà T1 đang nhìn ngó vào nhà mình. Do nghi ngờ bà T1 là người báo với đội quy tắc đô thị quận Liên Chiểu và phường Hòa Khánh Nam việc T xây dựng nhà trái phép (không có giấy phép xây dựng) nên quy tắc đô thị đã đến đập phá không cho T tiếp tục xây nhà, ảnh hưởng đến quyền lợi của T nên T hỏi “ủa, bà xuống nhà tôi làm chi nữa”, bà T1 trả lời “tao đi đâu là việc của tao” và đi về phía xe của mình. Khi vừa đi ngang quan phía trước xe của T (lúc này T đang ngồi trên xe cùng với con trai) thì T dùng tay trái túm lấy tay của bà T1 thì bà T1 nói “ta cho mi hết sống đất này luôn” (theo lời khai của T), cùng lúc này T dùng tay phải đấm vào vùng mặt của bà T1 một cái làm sưng, bầm tím hai hốc mắt và làm vỡ kính bà T1 đang đeo làm rách da dưới mắt trái bà T1. Bà T1 tiếp tục đi lại xe của mình, T đuổi theo túm tóc bà T1 giật lại phía sau làm bà T1 té ngã xuống đường bê tông. T tiếp tục dùng tay trái túm tóc bà T1, tay phải kẹp cổ bà T1 (bà T1 ở tư thế ngồi ngã về phía sau, phần vai và đầu thì T dùng tay xốc lên) rồi kéo lê bà T về phía nhà T (khoảng từ 2 đến 3m). Cùng lúc này, bà T1 kêu cứu nên anh Trần Anh Tuấn (là chồng chị T1) nghe được chạy đến can ngăn thì thấy bà T1 và T đang vật lôn với nhau dưới đường bê tông. Thấy vậy, anh Tuấn chạy đến ôm T can ngăn thì cũng bị T dùng tay phải ôm ghì qua cổ và tiếp tục kéo lê bà T1, anh Tuấn về phí nhà của mình. Khi đến vị trí tường rào, gần cổng nhà mình thì T lấy ví từ trong túi quần ra ném vào trong sân nhà mình làm tiền trong ví rơi ra và tri hô “trộm, trộm”. Thấy vậy, người dân gần đó đến can ngăn và điện báo cho Công an phường Hòa Khánh Nam đến giải quyết vụ việc. Trong quá trình điều tra Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngày 29/6/2017 và ngày 05/7/2017, bà Nguyễn Thị Ngọc T1 có đơn yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố đối với Phạm Văn T.
* Theo bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 197/TgT ngày 16/6/2017 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế thành phố Đà Nẵng kết luận bà Nguyễn Thị Ngọc T1 bị: Vùng quanh hốc mắt hai bên sưng nề, bầm máu màu tím, kết mạc mắt trái phù nề xung huyết; vùng gò má trái sưng nề bầm tím, trên nền bầm tím có vết rách da, kích thước 1,5cm x 0,1cm; mặt sau đoạn 1/3 cẳng tay phải có mảng xây xát da hiện tại đang lành, tạo vảy khô; mặt gan bàn chân trái có vết rách da hiện tại đang lành, tạo sẹo, có chổ chưa bong hết vảy khô, kích thước 02cm x 0,2cm; tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 06%. Theo công văn số 96/CV-TTPY ngày 02/11/2017 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế thành phố Đà Nẵng xác định: Không có cơ sở để xác định tổn thương trên cơ thể của bà Nguyễn Thị Ngọc T1 có để lại “cố tật” hay không để lại “cố tật”.
* Về dân sự: Bị hại bà Nguyễn Thị Ngọc T1 yêu cầu bồi thường số tiền 9.822.000đồng. Phạm Văn T đã bồi thường cho bà Nguyễn Thị Ngọc T số tiền 5.000.000đồng và ngày 04/4/2018 đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng số tiền bồi thường 4.822.000đồng.
* Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKS, ngày 12/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Phạm Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Phạm Văn T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.
Phần bồi thường dân sự bị cáo đã bồi thường, khắc phục xong nên không xem xét.
* Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn T đã thành khẩn, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo xác định cáo trạng truy tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội. Bị cáo thấy được hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại, bản thân chưa có tiền án, tiền sự; gia đình có công với cách mạng, hoàn cảnh gia đình khó khăn và lao động chính.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn T và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Văn T trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại cũng như các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:
Giữa bị cáo Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị Ngọc T1 không có mâu thuẩn gì, nhưng khoảng 09 giờ 30 phút ngày 31/5/2017, tại tổ 37 (90 cũ), phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, T nhìn thấy bà T1 đang nhìn vào trong nhà mình. Do nghi ngờ bà T1 là người báo với đội quy tắc đô thị quận Liên Chiểu và phường Hòa Khánh Nam việc mình xây dựng nhà trái phép nên quy tắc đô thị đã đến tháo dỡ không cho tiếp tục xây nhà nên T đã dùng tay đấm vào vùng mặt của bà T1 làm sưng, bầm tím hai hốc mắt và làm vỡ kính bà T1 đang đeo làm rách da dưới mắt trái bà T1, rồi tiếp tục túm tóc bà T1 kéo lê trên đường bê tông. Hậu quả bà T1 bị thương tích với tỉ lệ 06%. Đến ngày 29/6/2017 và ngày 05/7/2017, bà Nguyễn Thị Ngọc T1 có đơn yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Phạm Văn T theo Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn T đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 như bản cáo trạng số 25/CT-VKS, ngày 12/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Tính mạng và sức khoẻ của con người là vốn quý và bất khả xâm phạm nên được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 31/5/2017, Phạm Văn T thấy bà Nguyễn Thị Ngọc T1 nhìn vào trong nhà mình nên nghi ngờ bà T1 là người đã báo với đội quy tắc đô thị quận Liên Chiểu và phường Hòa Khánh Nam việc xây dựng nhà trái phép của mình nên đã dùng tay đấm vào vùng mặt của bà T1 làm sưng, bầm tím hai hốc mắt và làm vỡ kính bà T1 đang đeo làm rách da dưới mắt trái bà T1, rồi tiếp tục túm tóc bà T1 kéo lê trên đường bê tông. Hậu quả bà T1 bị thương tích với tỉ lệ 06%. Hành vi phạm tội của Phạm Văn T “Có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó, cần phải xử mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Song xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hoàn cảnh gia đình khó khăn và lao động chính, gia đình có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.
[5] Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao về chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát, giáo dục để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành công dân tốt.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại bà Nguyễn Thị Ngọc T1 tiếp tục yêu cầu Phạm Văn T bồi thường số tiền 4.822.000đồng. Xét thấy, yêu cầu của bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh là có cơ sở nên buộc Phạm Văn T phải tiếp tục bồi thường số tiền 4.822.000đồng.
Ngày 04/4/2018, Phạm Văn T đã nộp tiền bồi thường, khắc phục hậu quả với số tiền 4.822.000đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, do đó bà Nguyễn Thị Ngọc T1 liên hệ với Chi cục thi hành án dân sự quận Liên Chiểu để nhận tiền bồi thường.
[7] Bà Nguyễn Thị Ngọc T1 còn khai trong lúc xảy ra sự việc còn bị mất 01 chiếc nhẫn vàng (loại SJC 9999) trọng lượng 02 chỉ. Quá trình điều tra vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định việc bà Nguyễn Thị Ngọc T1 có bị mất số vàng trên nên không có cơ sở để xử lý.
Đối với hành vi khi kéo bà Nguyễn Thị Ngọc T1 đến gần cồng nhà mình, Phạm Văn T lấy ví từ trong túi quần ra ném vào trong sân nhà mình làm tiền trong ví rơi ra và tri hô “trộm, trộm”. Xét thấy, hành vi này của Phạm Văn T không đủ căn cứ để khởi tố về tội “Vu khống” theo quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999 nên Công an quận Liên Chiểu không xử lý hình sự và ra quyết định xử lý hành chính bằng hình phạt tiền là có căn cứ nên không đề cập đến
[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
1. Căn cứ vào: điểm i khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015.
+ Xử phạt: Phạm Văn T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Tuyên giao bị cáo Phạm Văn T về Ủy ban nhân dân phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giám sát, giáo dục.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 590 Bộ luật dân sự. Tuyên:
+ Buộc Phạm Văn T phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Ngọc T1 số tiền 4.822.000đồng (bốn triệu tám trăm hai mươi hai nghìn đồng).
Phạm Văn T đã nộp số tiền bồi thường 4.822.000đồng (bốn triệu tám trăm hai mươi hai nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo biên lai thu tiền số 003397 ngày 04/4/2018. Bà Nguyễn Thị Ngọc T1 có trách nhiệm liên hệ với Chi cục thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng để nhận tiền bồi thường.
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 32/2018/HSST ngày 13/04/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 32/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về