Bản án 32/2018/HS-PT ngày 08/03/2018 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 32/2018/HS-PT NGÀY 08/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 07/2018/HSPT ngày 09 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Trần Đức T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 267/2017/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Huế.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Đức T (tức Bia), sinh ngày 01/3/1992, tại Thừa Thiên Huế; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: 04 kiệt 31 Hồ Đắc Di, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc:Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần A và bà Trương Thị S; vợ, con: chưa có; tiền sự: không; tiền án: 02 tiền án (Bản án số 34/2012/HSST ngày 29/02/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Huế xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bản án số 13/2016/HSPT ngày 29/01/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản với tình tiết “tái phạm”); nhân thân: Ngày 26/10/2007 bị Ủy ban nhân dân thành phố Huế ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi trộm cắp nhiều lần;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/9/2017. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 17/5/2017, Trần Đức T đến quán Internet Game Xanh của anh Nguyễn Văn L ở 40 Hồ Đắc Di, phường An C, thành phố Huế chơi game. T đi lên tầng 2 mở máy ngồi chơi được một lúc thì tài khoản hết tiền, nên máy tự động khóa. T nhắn tin qua hệ thống máy vi tính yêu cầu anh Lê Hoàng A- nhân viên làm thuê của quán mở máy để tiếp tục chơi, nhưng anh Hoàng A trả lời không mở được vì quy định của quán là khách phải nộp tiền vào tài khoản mới được chơi.

Bực tức, T liền lấy chuột máy vi tính mình dang sử dụng ném vào phía trước màn hình của máy vi tính bên cạnh phía phải rồi bỏ đi về.

Hậu quả: Màn hình máy vi tính bị rạn nứt, thiệt hại 90 % giá trị, chuột máy vi tính bị hỏng.

Vật chứng thu giữ gồm:

-01 màn hình máy tính hiệu AOC I2579 V màu trắng, 25 inch, mặt trước bị rạn nứt không lên điện nguồn.

-01 chuột máy tính màu đen.

-01 đĩa DVD có ghi hình ảnh Trần Đức T dùng chuột máy vi tính ném vào màn hình máy vi tính, được trích xuất từ Camara quan sát trong quán và 03 tấm ảnh đen trắng in ra từ đoạn clip trong đĩa DVD.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 247/KL- HĐ ĐG ngày 14/7/2017 của Hội đồng định giá thành phố Huế xác định giá trị các tài sản tại thời điểm thiệt hại là: màn hình máy tính hiệu AOC I2579V bị hư hỏng giá trị thiệt hại 3.307.500 đồng, 01 chuột vi tính bị hư giá trị thiệt hại 50.000 đồng. Tổng thiệt hại về tài sản là 3.357.500 đồng.

* Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại anh Nguyễn Văn Lợi một màn hình máy vi tính và một chuột máy vi tính bị hư.

* Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra anh Nguyễn Văn L yêu cầu bị cáo T phải bồi thường cho anh số tiền 3.500.000 đồng. Bà Trương Thị S mẹ của bị cáo T đã tự nguyện bồi thường cho  anh Lợi 2.000.000 đồng. Anh L  đã nhận số tiền 2.000.000 đồng không có yêu cầu bồi thường thêm và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 267/2017/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Huế đã tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội “Cố ý  làm hư hỏng tài sản”.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 143; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điêu 46 Bộ luật Hình sự năm 1999;

Xử phạt Bị cáo Trần Đức T 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam 01/9/2017.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và thông báo quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 06/12/2017, bị cáo Trần Đức T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế có quan điểm về tính hợp pháp của kháng cáo và đề nghị áp dụng thêm điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 1999 để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đức T sửa bản án hình sự sơ thẩm và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo khai nhận hành vi của mình và vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của bị cáo thống nhất với nội dung vụ án đã được nêu trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút,  ngày 17/5/2017, tại quán Internet Game Xanh của anh Nguyễn Văn L, Trần Đức T đã có hành vi dùng chuột máy tính ném vỡ màn hình máy vi tính của anh L làm màn hình máy tính và chuột máy tính bị hư hỏng. Giá trị tài sản bị thiệt hại là 3.357.500 đồng. Hành vi của Trần Đức T đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà pháp luật bảo vệ nên đã phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại Điều 143 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Do bị cáo Trần Đức T đã bị kết án 01 năm tù về tội:”Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng là Tái phạm theo bản án số 13/2016/HSPT ngày 29/01/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế chưa được xóa án tích, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này, bị cáo T đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng là tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Đức T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 143 Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Đức T xin giảm nhẹ hình phạt thì thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, nhân thân của bị cáo và mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; đã áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 mà tuyên phạt bị cáo Trần Đức T 02 (hai) năm tù là đúng pháp luật và không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới, khác so với bản án của tòa án sơ thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự của Đại diện Viện kiểm sát, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo Trần Đức T không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đức T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 267/2017/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Huế.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 143; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999;

Xử phạt bị cáo Trần Đức T (tức Bia) 02 năm tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 01/9/2017.

Về án phí: Bị cáo Trần Đức T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc Thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HS-PT ngày 08/03/2018 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:32/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về