TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 32/2018/HS-PT NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 365/2017/TLPT-HS ngày 18 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn T.
Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2017/HSST ngày 07 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện T.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T (Tên gọi khác: H), sinh năm 1987; HKTT và chỗ ở: ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1950 (chết) và bà Huỳnh Thị T1, sinh năm 1960; Anh chị em ruột: có 05 người, bị cáo thứ 06; tiền sự: Không; tiền án: Không; Áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú: Ngày 17/7/2017; Bị cáo đang tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ ngày 14 tháng 06 năm 2017 Nguyễn Văn T đi bộ từ nhà đến tiệm Internet của Nguyễn Văn H ở ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, trên đường đi T lượm được 01 chìa khóa xe Honđa bỏ vào túi quần rồi tiếp tục đi đến tiệm Internet của anh H, lúc này T thấy một xe mô tô biển kiểm soát 66N3-03xx của Văn Anh K đang dựng bên hông tiệm, nên nảy sinh ý định lấy trộm, T đi đến nhà người bạn tên Huỳnh Văn T2 cách đó khoảng 100m, T nhờ T2 bán dùm một chiếc xe mô tô, T2 hỏi xe của ai, T trả lời “xe của người bạn nhờ bán” T2 kêu T cất giấu để sáng mai đem qua Campuchia bán. Sau đó T quay lại tiệm Internet dùng chìa khóa trong túi mở công tắc xe chạy qua Campuchia giấu nơi đối diện với cửa khẩu Quốc tế D. Qua ngày sau lúc 05 giờ T điện cho T2 qua Campuchia bán xe dùm, T2 đồng ý và khi đi T2 mang theo 01 chìa khóa đến nơi giấu xe T2 đưa chìa khóa cho T để tháo biển kiểm soát xe, khi tháo xong T mang biển kiểm soát xe cất giấu rồi cùng với T2 chạy xe lên Hố Lương - Campuchia gởi xe vào nhà người quen của T2 và nhờ bán dùm, sau đó T2 chở T về Việt Nam khi tới Cửa khẩu Quốc tế D, T xuống đi bộ về nhà.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2017/HSST ngày 07/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 17 tháng 11 năm 2017, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh đề nghị: Căn cứ Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm về hình phạt. Kiến nghị việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định sai tư cách đương sự, chị Nguyễn Thị A phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, anh Văn Anh K là bị hại mới đúng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Nguyễn Văn T là người đã trưởng thành, có đầy đủ sức khỏe lao động để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân. Nhưng vì muốn có tiền tiêu xài mà không cần phải vất vả, nên bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 9.940.000 đồng. Bản thân bị cáo hoàn toàn có đủ khả năng để biết được hành vi chiếm đoạt tài sản nói trên là vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật xử lý, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T (H) 06 (sáu) tháng tù là có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời phù hợp với tính chất cũng như mức độ phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Do đó, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội. Bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin được hưởng án treo, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ gì mới ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát Tỉnh phát biểu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm về hình phạt và kiến nghị Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm trong việc xác định sai tư cách đương sự, chị Nguyễn Thị A phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, anh Văn Anh K là bị hại. Xét thấy, chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển số 66N3-03xx do chị Nguyễn Thị A đứng tên chủ sở hữu, Văn Anh K là con của chị A, sau khi chiếm đoạt xe, bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong cho bị hại nhưng cấp sơ thẩm xác định sai tư cách của chị A là bị hại và Văn Anh K là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chưa đúng nên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh là có cơ sở nên chấp nhận.
[3] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn T. Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 32/2018/HS-PT ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 32/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/02/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về