TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 32/2018/HNGĐ-PT NGÀY 25/12/2018 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 25 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 26/2018/TLPT-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2018 về việc: “Tranh chấp về nuôi con”.
Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 29/2018/HNGĐ-ST ngày 24/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2018/QĐ-PT ngày 17 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1994;
Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Dương.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình K, Luật sư thuộc Chi nhánh Công ty luật TNHH B.C.M, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương.
2. Bị đơn: Anh Huỳnh Ngọc H, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn D, xã E, huyện F, tỉnh Bình Thuận.
3. Người kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L.
Tại phiên tòa, có mặt chị Nguyễn Thị Ngọc L, anh Huỳnh Ngọc H và Luật sư Nguyễn Đình K.
Theo hồ sơ án sơ thẩm:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L trình bày:
Chị và anh Huỳnh Ngọc H kết hôn vào năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E. Chị và anh H đã ly hôn tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 81/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bình Dương. Anh chị có một con chung là cháu Huỳnh Ngọc H sinh ngày 11/12/2015. Khi ly hôn, chính chị thỏa thuận giao con cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không yêu cầu chị cấp dưỡng. Tuy nhiên, sau khi ly hôn, anh H đã đưa con về quê ở Thôn D, xã E, huyện F, tỉnh Bình Thuận sinh sống nên chị không được thăm nuôi con thường xuyên. Mặt khác, mỗi lần chị ra thăm con đều bị gia đình anh H gây khó khăn, anh H đang ở nhờ nhà cha mẹ nên khi chị đến thăm con cũng trở ngại. Hiện nay, cháu Huỳnh Ngọc H chưa đủ 3 tuổi nên chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.
Bị đơn Huỳnh Ngọc H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân và con chung anh thống nhất như lời khai của chị L. Khi ly hôn, chị L không nuôi con mà giao con cho anh trực tiếp nuôi dưỡng. Từ trước đến nay anh vẫn chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tốt và cho con đi học mầm non tại địa phương nên không đồng ý giao con cho chị L nuôi.
Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành tổ chức các phiên hòa giải để các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, nhưng việc hòa giải không thành.
Ngày 24/9/2018, Tòa án nhân dân huyện H m Thuận Nam đưa vụ án ra xét xử tại Bản án hôn nhân v gia đ nh sơ thẩm số 29/2018/HNGĐ-ST:
Căn cứ: Vào Khoản 3 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 14 , Điều 2 , Điều 2 9, Điều 2 3 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326 năm 201 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên Xử: Không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của chị Nguyễn Thị Ngọc L.
Không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực triếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm, thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/10/2018, nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L làm đơn kháng cáo toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Chị L vẫn giữ nguyên kháng cáo, yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, chị L cung cấp Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được lập tại Văn phòng công chứng, theo đó chị được cha mẹ tặng cho 10.8 3m² đất cao su và 2m² đất ở, và đồng thời cung cấp sổ tiết kiệm với số tiền gửi 500.000.000 đồng tại Ngân hàng đứng tên Nguyễn Thị Ngọc L. Theo chị L, trước đây do cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn, anh H thường xuyên đánh đập chị nên chị muốn ly hôn để giải thoát. Anh H đã ra điều kiện phải được nuôi con thì mới đồng ý ly hôn nên chị đã giao con cho anh H nuôi để được ly hôn. Sau ly hôn chị vẫn đến chăm sóc con. Tuy nhiên, sau đó anh H đã đem con về Bình Thuận làm cho việc thăm, chăm sóc con của chị không thể thực hiện thường xuyên được nên chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con.
Luật sư Nguyễn Đình K - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị L đề nghị Tòa án giao con cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng với các căn cứ: con chung chưa đủ 3 tháng tuổi, gia đình anh H ngăn cản việc thăm nuôi con của chị L, chị L có điều kiện kinh tế, thu nhập cao hơn anh H, con chung là nữ giới nên giao cho mẹ nuôi sẽ tốt hơn cho sự phát triển của con.
Anh H không chấp nhận kháng cáo của chị L. Theo anh H, mặc dù điều kiện kinh tế của anh không bằng chị L nhưng khi ly hôn, chị L đã giao con cho anh nuôi. Từ đó đến nay anh vẫn nuôi con tốt. Hiện anh được cha mẹ cho hơn 5.000 m² đất thanh long, anh cũng có 200.000.000 đồng gửi ngân hàng nên đủ điều kiện để nuôi con. Vì vậy, anh không đồng ý giao con cho chị L.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B nh Thuận phát iểu ý kiến:
Về tố tụng: Người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của chị L, sửa bản án sơ thẩm, giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Chị L và anh H là vợ chồng hợp pháp, có 01 con chung, đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 81/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bình Dương. Theo quyết định này, anh H được trực tiếp nuôi con chung là cháu Huỳnh Ngọc H sinh ngày 11/12/2015, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con.
[3] Về điều kiện nuôi con, hiện nay, cả chị L và anh H đều không thuộc trường hợp bị hạn chế quyền nuôi con đều có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, có đất trồng cây đem lại hoa lợi, có tiền gửi tại ngân hàng hàng trăm triệu đồng và cũng đều được cha mẹ hai bên hỗ trợ nếu được trực tiếp nuôi con nên về điều kiện nuôi con của anh chị là như nhau và đều có điều kiện để nuôi con tốt.
[4] Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con. Hiện nay cả chị L và anh H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, yêu cầu này là chính đáng.
Xét thấy, cháu Huỳnh Ngọc H là con gái, tại thời điểm xét xử sơ thẩm, cháu Huỳnh Ngọc H chưa đủ 3 tháng tuổi rất cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ để phát triển tốt nhất về mặt tâm sinh lý. Hiện nay anh H đã đưa cháu Huỳnh Ngọc H về sinh sống tại huyện F, tỉnh Bình Thuận trong khi chị L sinh sống ở Bình Dương dẫn đến chị L không thể thăm nuôi con thường xuyên được, từ đó ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của con chung. Sau khi anh chị thỏa thuận giao con cho anh H nuôi (ngày 09/3/2018) thì đến ngày 2 /3/2018, sau khi anh H đưa con về Bình Thuận, chị L đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu thay đổi việc nuôi con nên không có cơ sở để xác định chị L từ bỏ quyền nuôi con. Tòa án cấp sơ thẩm xác định chị L không tha thiết nuôi con để giao con cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là chưa phù hợp. Căn cứ Khoản 3 Điều 81; Khoản 1, Khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người vợ và con chung, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, giao cháu Huỳnh Ngọc H cho chị Nguyễn Thị Ngọc L trực tiếp nuôi dưỡng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Kháng cáo của chị L, lời phát biểu của Luật sư là có căn cứ nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: do bản án sơ thẩm bị sửa theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đồng thời là người kháng cáo nên chị Nguyễn Thị Ngọc L không phải chịu án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm, bị đơn Huỳnh Ngọc H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 , Khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự Khoản 2 Điều 2, Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/201/UBTVQH14 ngày 30/12/201 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 308; Khoản 1 Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L, sửa Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 29/2018/HNGĐ-ST ngày 24/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam:
Áp dụng:
- Khoản 3 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 2 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Khoản 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Khoản 1 Khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
- Khoản 1 Điều 14, Khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự Khoản 2 Điều 2, Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326 /2014/UBTVQH 14 ngày 30/12/201 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên :
1. Chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L: giao con chung là cháu Huỳnh Ngọc H sinh ngày 11/12/2015 cho nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc bị đơn Huỳnh Ngọc H giao con chung là cháu Huỳnh Ngọc H sinh ngày 11/12/2015 cho nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L.
Anh Huỳnh Ngọc H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật của anh Huỳnh Ngọc H. Vì lợi ích của con chưa thành niên, trường hợp chị Nguyễn Thị Ngọc L thực hiện không tốt quyền, nghĩa vụ nuôi con, anh H có quyền khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí:
- Nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc L không phải chịu án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm, hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Ngọc L 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 002111 ngày 11/4/2018 và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí phúc thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0021253 ngày 08/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Nam.
- Bị đơn Huỳnh Ngọc H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 25/12/2018).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều, a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 32/2018/HNGĐ-PT ngày 25/12/2018 về tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 32/2018/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về