TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B – TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 32/2017/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2017 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 28/02/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. B - tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1629/2016/TLST – HNGĐ ngày 08/8/2016 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2017/QĐST-HNGĐ ngày 10/02/2017 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1984
HKTT: 139A Bis, ấp 1, xã T, TP. B, tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ liên hệ: 209 tổ 15, ấp B, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.
Bị đơn: ông Huỳnh Thanh C, sinh năm 1982
HKTT: 139A Bis, ấp 1, xã T, TP. B, tỉnh Đồng Nai .
(Bà M có mặt, ông C vắng mặt);
NHẬN THẤY
Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai bà M trình bày: Tôi và ông C chung sống như vợ chồng với nhau năm 2002, đến năm 2006 chung tôi đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, TP. B, hôn nhân tự nguyện. Quá trình chung sống không hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu thuẫn từ năm 2010 do ông C thường xuyên nhậu say về kiếm chuyện chửi bới, đánh đập nên chúng tôi thường xuyên cải vã, không khí trong gia đình lúc nào cũng căng thẳng, lục đục. Nay tôi xét thấy tình cảm không còn nên xin ly hôn với ông C.
Con chung: Có 01 cháu tên Huỳnh Thanh T, sinh ngày 08/10/2003. Khi ly hôn tôi có nguyện vọng nuôi con, tôi không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung: không có. Nợ chung: Không có.
Phía bị đơn ông Huỳnh Thanh C: Tòa đã triệu tập hợp lệ ông nhiều lần nhưng ông không đến Tòa án làm việc, tham gia hòa giải và xét xử nên không có lời trình bày.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: ông Huỳnh Thanh C đã được Tòa triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông không đến Tòa án làm việc, tham gia hòa giải và xét xử, căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành đưa vụ án xét xử vắng mặt đối với ông C.
Về quan hệ hôn nhân: Bà M và ông C kết hôn với nhau vào năm 2006, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo giấy đăng ký kết hôn số 35, quyển số 01 ngày 15/6/2006 tại Ủy ban nhân dân xã T nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, áp dụng luật hôn nhân và gia đình năm 2015 để giải quyết.
Quá trình chung sống, bà M trình bày ông bà thường xảy ra mâu thuẫn do ông C thường xuyên nhậu say về kiếm chuyện chửi bới, đánh đập nên ông bà thường xuyên cải vã, không khí trong gia đình lúc nào cũng căng thẳng, lục đục.
Nay bà xét thấy tình cảm không còn nên xin ly hôn với ông C.
Theo biên bản xác minh tại địa phương nơi ông C đang sinh sống cũng thể hiện mâu thuẫn giữa bà M và ông C là có thật, địa phương nhiều lần hòa giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn nên bà M đã chuyển đi nơi khác sinh sống cách đây 05 năm, hiện hai vợ chồng không còn sống chung nhà nữa.
Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng ông C không có mặt, điều này thể hiện ông C bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình. Do vậy, nghĩ nên chấp nhận đơn xin ly hôn của bà M, giải quyết cho bà được ly hôn với ông C là phù hợp.
Về con chung: Có 01 cháu tên Huỳnh Thanh T, sinh ngày 08/10/2003. Khi làm đơn ly hôn bà M có nguyện vọng nuôi con, sau khi Tòa án tiến hành lấy lời khai cháu T thì cháu có nguyện vọng được ở với ông C nên bà M đồng ý giao cháu T lại cho ông C nuôi dưỡng, tạm thời bà không cấp dưỡng nuôi con. Thiết nghĩ, nên giao cháu T cho ông C nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật, tạm thời bà M không cấp dưỡng nuôi con.
Vì không trực tiếp nuôi con nên bà M được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở.
Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Do ông C không đến Tòa làm việc nên Tòa án không xác định được ông C, bà M có tài sản chung, nợ chung không. Mặt khác, bà M cũng không yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung nên Tòa án không có cơ sở giải quyết. Phần tài sản chung, nợ chung sẽ được tách ra giải quyết sau, khi nào đương sự có yêu cầu thì được giải quyết bằng vụ kiện khác.
Về án phí HNGĐ sơ thẩm: bà M phải nộp 200.000đ. .
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 203, 205, 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng các Điều 55, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2015; Pháp lệnh án phí, lệ phí năm 2009.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị M được ly hôn với ông Huỳnh Thanh C.
Về con chung: giao cháu Huỳnh Thanh T, sinh ngày 08/10/2003 cho ông C nuôi dưỡng, tạm thời bà M không cấp dưỡng nuôi con.
Vì không trực tiếp nuôi con nên bà M được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở.
Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con
Về tài sản chung, nợ chung: được tách ra giải quyết sau, khi nào đương sự có yêu cầu thì được giải quyết bằng vụ kiện khác.
Án phí HNGĐ sơ thẩm: bà M phải nộp 200.000đ nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà M đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự TP. B, biên lai số 008966 ngày 28/9/2016. Bà M đã nộp xong án phí HNGĐ-ST.
Bà M được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông C được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 32/2017/HNGĐ-ST ngày 24/07/2017 về xin ly hôn
Số hiệu: | 32/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về