Bản án 320/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 320 /2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 174/2018/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2018, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/10/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1991; 

ĐKHKTT: SN 3, tổ 14, phường T, thành phố T, tỉnh T. Nơi ở hiện nay: SN 9, tổ 1, phường P, thành phố T, tỉnh T. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Tống Võ L, sinh năm 1987; 

ĐKHKTT: SN 3, tổ 14, phường T, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có qua thời gian tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Anh chị đăng ký kết hôn ngày 26/5/2013 tại Ủy ban nhân dân xã Đội Bình, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống cùng nhà với bố mẹ đẻ của anh L tại tổ 14, phường T, thành phố T. Theo chị S, quá trình chung sống vợ chồng bình thường được hai năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L nhiều lần đánh chị và không quan tâm đến vợ con, không đưa tiền nuôi con cho chị. Mâu thuẫn ngày càng nhiều nên chị đã hai lần gửi đơn ly hôn lên Toà án nhưng sau khi nghe Toà án hoà giải và vì thương con nên chị lại rút đơn. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay, thời gian đầu ly thân chị S về ở với bố mẹ đẻ chị tại xã Đ, huyện Y, tỉnh T còn anh L vẫn ở cùng nhà với bố mẹ đẻ của anh tại tổ 14, phường T, thành phố T. Hiện tại chị S thuê nhà để ở cùng con nhỏ và làm văn phòng giao dịch bán hàng, trang điểm, thời trang, spa tại tổ 1, phường P, thành phố T. Trong thời gian ly thân anh L cũng không hỗ trợ chi phí nuôi con cùng chị, chị thấy anh L vẫn chứng nào tật ấy không có sự thay đổi khiến cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng, hôn nhân không đạt được mục đích. Vì vậy chị quyết định gửi đơn ly hôn một lần nữa, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tống Võ L.

Quá trình giải quyết anh Tống Võ L trình bầy: Anh và chị S tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống vui vẻ hạnh phúc nhưng một thời gian sau do chị S quen biết một số bạn xấu nên đã thay đổi rất nhiều vì bị ảnh hưởng từ nhóm bạn xấu đó, cụ thể nhóm bạn có 5 người chơi thì 4 người đều bỏ chồng. Do ngăn cản không muốn chị S chơi cùng nhóm bạn xấu nên vợ chồng anh đã cãi nhau và bắt đầu không hoà thuận. Do nhiều lần chị S tụ tập uống rượu với nhóm bạn xấu đến muộn mới về trong tình trạng say nhè nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở lên lớn hơn. Khi chị S không nghe lời khuyên bảo của anh và gia đình vẫn tiếp tục chơi với nhóm bạn xấu đó, do không giải quyết được bằng lời nói vì thế hai vợ chồng thường xuyên xô xát cãi chửi nhau. Năm 2016 chị S đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ, do thương con còn bé anh đã cố gắng hàn gắn để vợ chồng trở về với nhau cho con đỡ khổ. Tuy nhiên sau khi đoàn tụ, vợ chồng vẫn xích mích chỉ vì chị S vẫn tiếp tục chơi cùng nhóm bạn xấu và thường xuyên rượu chè ngày càng quá đáng nên anh và chị S thường xuyên cãi nhau, không thống nhất quan điểm, tình cảm ngày càng đi xuống. Chị S đã phản bội anh ngồi ôm trai trong quán hát và bị anh bắt quả tang, do không kìm chế được nên anh đã ẩu đả với chị S và nhóm bạn xấu đó. Sau vụ ẩu đả chị S đã bỏ đi không trở về gia đình cho đến nay, kể từ đó vợ chồng anh chính thức ly thân. Anh được biết chị S đang thuê nhà ở cùng bạn tại SN 9, đường P, thành phố T, anh và chị S không gặp nhau nhưng anh có nhắn tin bảo chị S về nhà nhưng chị S không về. Nay chị S làm đơn ly hôn anh không nhất trí vì cần thêm thời gian để suy nghĩ.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L có 01 con chung là Tống Phan H, sinh ngày 06/1/2014 do chị S đang nuôi dưỡng. Quá trình giải quyết chị S xin được tiếp tục nuôi con chung không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con do hiện tại anh L còn đang đi học nghề tại Hà Nội còn chị kinh doanh, làm nghề thu nhập bình quân 15.000.000đ/tháng. Anh L đề nghị, nếu Toà án giải quyết cho anh và chị S ly hôn anh xin được nuôi con không yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con vì anh đang ở cùng nhà với bố mẹ đẻ, ông bà sẽ giúp đỡ thêm cho anh trong việc chăm sóc nuôi dưỡng con nhỏ. Về thu nhập bản thân anh có 01 nhà tại tổ 14, phường T, thành phố T cho thuê, ngoài ra anh còn được bố mẹ cho quản lý và cho anh tiền thuê nhà thu được của 20 phòng trọ, bình quân thu nhập của anh về việc cho thuê nhà và phòng trọ là 6.000.000đ/tháng. Hiện tại anh đang học nghề nội thất ô tô tại Hà Nội, đến hết năm 2018 thì học xong anh sẽ về mở xưởng tại nhà để tăng thêm thu nhập nuôi con.

Về tài sản và vay nợ chung: Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L cùng xác định không có tài sản chung, không có vay nợ chung trong quá trình chung sống nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kết quả xác minh tại gia đình anh L thể hiện: Anh Tống Võ L và chị Nguyễn Thị S kết hôn có đăng ký theo quy định pháp luật và về chung sống cùng nhà với ông Tống Văn Đ và bà Nguyễn Thị V (là bố mẹ đẻ của anh L) tại tổ 14, phường T, thành phố T. Cuộc sống vợ chồng của anh chị mâu thuẫn trong sinh hoạt hàng ngày, nguyên nhân chủ yếu là do chị S không ý tứ và kín đáo trong ăn mặc và trong sinh hoạt, hay mải chơi bạn bè thái quá. Anh L nóng tính nên đã đánh chị S. Ông bà Đ – V đã nhiều lần khuyên giải nhưng chị S không thay đổi. Trước Tết âm lịch năm 2018 có xảy ra việc anh L thấy chị S thân mật với người khác nên tát chị S, chị S bỏ nhà đi nói là đưa con về nhà ông bà ngoại. Hiện tại gia đình được biết chị S thuê nhà làm nghề xăm trổ thẩm mỹ tại phường P, thành phố T, những lúc bận việc chị S vẫn gửi con và nhờ ông bà nội đưa đón đi học. Gia đình đề nghị Toà án hoà giải cho anh chị S – L đoàn tụ cho con nhỏ đỡ khổ. Ông bà Đ – V cho biết, anh L hiện đang vừa học vừa làm nghề tại Hà Nội thu nhập là 4.500.000đ/tháng, gia đình không phải cho anh L tiền ăn học, ngoài ra gia đình ông bà có 20 gian nhà cho thuê trọ hiện đang có người trọ là 12 gian, số tiền này ông bà cho tất anh L để chi phí cuộc sống; anh L còn cho thuê gian hàng cũ của anh chị là 1.000.000đ/tháng và cho thuê đất làm xưởng gỗ tại tổ 14, phường T, thành phố T được 3.000.000đ/tháng. Như vậy anh L tổng thu nhập là trên 10.000.000đ/tháng. Nếu anh chị S – L ly hôn, ông bà đề nghị Toà án giải quyết cho anh L nuôi con Tống Phan H vì giao cho chị S ông bà không yên tâm do công việc của chị S bận rộn khách hàng, không có giờ giấc ổn định nên không có lợi cho việc nuôi dậy con nhỏ.

* Kết quả xác minh tại gia đình của chị S thể hiện: Nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể của anh chị S – L thì ông Nguyễn Xuân V (là bố đẻ của chị S) không biết chính xác nhưng biểu hiện nhìn thấy là anh L thường xuyên đánh chị S, lần đầu tiên là trước khi tổ chức đám cưới khiến gia đình hai bên đã phải phân tích hoà giải. Ông có tìm hiểu và nhận thấy theo chủ quan là do anh L ghen tuông thái quá, việc anh L thường xuyên đánh chị S đã được hai bên gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng không có sự thay đổi. Chị S và anh L đã từng sống ly thân khoảng 01 năm vào 2015 – 2016, sau đó vợ chồng ông kết hợp với mẹ anh L tích cực hoà giải nên đã đoàn tụ chung sống, đến tháng 11/2017 thì anh chị lại sống ly thân. Sau đó chị S về nhà ông bà sống được ít ngày thì thuê nhà ở cùng con nhỏ và làm nghề phun xăm thẩm mỹ tại tổ 1, phường P, thành phố T, từ đó anh L cũng không liên hệ gì với bố mẹ vợ. Ông V nhận thấy anh L không thay đổi bản thân, mâu thuẫn của anh chị không thể hoà giải được, nếu cứ tiếp diễn sợ có lúc vợ chồng ông mất con gái vì hành vi đánh vợ của anh L nên đề nghị Toà án xem xét giải quyết theo nguyện vọng của chị Nguyễn Thị S.

Tại phiên toà, chị Nguyễn Thị S có đơn xin xét xử vắng mặt, chị giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh Tống Võ L và xin nuôi con chung Tống Phan H, ngoài ra không yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề nào khác. Anh Tống Võ L vắng mặt không có lý do.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng dân sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Riêng phía bị đơn chấp hành chưa nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L có đăng ký kết hôn ngày 26/5/2013 tại UBND xã Đội Bình, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, hiện đã sống ly thân. Chị S đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh L nhưng anh L không đồng ý. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử xử theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị S; Giao cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng con chung Tống Phan H, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con do chị S không yêu cầu. Về tài sản và vay nợ chung: Không xem xét giải quyết do các đương sự xác định không có và không yêu cầu. Chị S phải chịu án phí; các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ (gửi bảo đảm qua đường bưu điện, tống đạt trực tiếp và niêm yết theo quy định) các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn. Tại phiên toà, chị Nguyễn Thị S có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Tống Võ L vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng. Căn cứ Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L kết hôn trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn đúng quy định pháp luật, như vậy quan hệ hôn nhân của chị S và anh L là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, không hoà giải được. Từ cuối năm 2017 anh chị sống ly thân, chị S có đơn yêu cầu ly hôn với anh L. Quá trình Toà án giải quyết, anh L không nhất trí ly hôn với chị S nhưng không có mặt đủ tại các buổi làm việc và hoà giải do Toà án tiến hành.

Qua việc điều tra, xác minh thể cuộc sống chung của chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L có nhiều mâu thuẫn dẫn đến hiện đang sống ly thân. Như vậy, có cơ sở cho thấy hôn nhân của chị S và anh L đã lâm vào tình trạng thực sự trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ chung sống. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận xử cho chị Nguyễn Thị S được ly hôn với anh Tống Võ L.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L có 01 con chung hiện đang do chị S trực tiếp nuôi dưỡng, anh chị không thống nhất được mà cùng đề nghị được là người trực tiếp nuôi con sau ly hôn và không yêu cầu người kia cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định: chị S có công việc và thu nhập ổn định còn anh L hiện đang học nghề tại Hà Nội. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con chưa thành niên nên giao con chung là Tống Phan H, sinh ngày 06/01/2014 cho chị Nguyễn Thị S trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Do hiện tại chị S không yêu cầu về việc cấp dưỡng của anh L đối với con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh Tống Võ L có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản và vay nợ chung: Các đương sự xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị S phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; anh Tống Võ L không phải nộp án phí.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 147, khoản 2 Điều 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị S được ly hôn anh Tống Võ L.

2. Về con chung: Xử giao con chung là Tống Phan H, sinh ngày 06/01/2014 cho chị Nguyễn Thị S trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Tống Võ L không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do hiện tại chị S không yêu cầu). Anh Tống Võ L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị S phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0005275 ngày 05/7/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang. Chị Nguyễn Thị S đã nộp đủ án phí của vụ án.

Anh Tống Võ L không phải nộp án phí.

Chị Nguyễn Thị S và anh Tống Võ L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 320/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:320/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về