TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH T, THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 318/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 11 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Bình T, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 773/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn”;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19/02/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1988 (xin vắng mặt)
Địa chỉ thường trú: Số 199, đường L, Phường 7, Quận 3, Thành phố H.
Địa chỉ tạm trú: 258/2 An Dương V, Phường 16, Quận 8, Thành phố H.
Bị đơn: Ông Trần Minh L, sinh năm 1984 (vắng mặt)
Địa chỉ thường trú: Số 199, đường L, Phường 7, Quận 3, Thành phố H.
Địa chỉ tạm trú: 243/2/36 Chu Văn A, Phường 12, Quận Bình T, Thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bà Nguyễn Thị Kim H và ông Trần Minh L là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận 3, Thành phố H. Qúa trình chung sống ông bà có một con chung tên Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 21/9/2007. Tại đơn xin ly hôn ngày 20/4/2018, bà H trình bày lý do ly hôn vì mâu thuẫn vợ chồng, không còn tin tưởng yêu thương nhau; bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Trần Minh L cấp dưỡng; về tài sản chung, nợ chung bà khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án ghi nhận những vấn đề sau đây:
Nguyên đơn trình bày tại Bản khai ngày 27/11/2018 và các Biên bản hòa giải như sau: Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc đến khoảng năm 2011 thì hai bên phát sinh mâu thuẫn. Bị đơn có quan hệ với người phụ nữ khác, thường xuyên không về nhà, thờ ơ, không quan tâm chăm sóc gia đình, con cái, không đóng góp về mặt kinh tế cho cuộc sống chung của gia đình. Nguyên đơn và bị đơn đã nhiều lần tự hàn gắn, hòa giải nhưng không thành. Nguyên đơn đã đưa con chung về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, không còn chung sống với bị đơn từ năm 2010. Nguyên đơn xác định tình cảm vợ chồng đã không còn, không thể chung sống với nhau yêu cầu ly hôn để yên tâm làm ăn, nuôi dạy con cái. Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình từ khi Tòa án thụ lý vụ án, không cung cấp tài liệu chứng cứ, không gửi cho Tòa án văn bản ý kiến của mình nên Tòa án không thể ghi nhận và tiến hành hòa giải. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Bình T, Thành phố H tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng, Thẩm phán và những người tham gia tố tụng khác đã thực hiện đúng thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; về nội dung, đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
1.1 Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án:
Nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với bị đơn. Xét các đương sự tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân nên quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là Ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Theo trả lời xác minh ngày 20/6/2018 của Công an Phường 12, Quận Bình T, ông Trần Minh L tạm trú tại địa chỉ 243/2/36 Chu Văn A, Phường 12, Quận Bình T và hiện đang thực tế cư trú tại địa phương. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Bình T.
1.2 Xét xử trong trường hợp vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, căn cứ vào Điều 227 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự.
1.3 Về thu thập chứng cứ:
Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân của các đương sự theo đúng quy định của pháp luật. Các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp và do Tòa án thu thập được ghi nhận trong Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 29/10/2018 và 27/11/2018.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Kim H và ông Trần Minh Luân.
Theo Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao) số 37, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận 3, Thành phố H cấp ngày 22/3/2007 cho bà Nguyễn Thị Kim H, ông Trần Minh L, đã có đủ căn cứ xác định đây là hôn nhân hợp pháp.
Xét, hôn nhân của nguyên đơn, bị đơn tồn tại trong một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống chung không hạnh phúc. Theo nguyên đơn trình bày thì nguyên nhân mâu thuẫn do bị đơn có quan hệ với người phụ nữ khác, thường xuyên không về nhà, thờ ơ, không quan tâm, chăm lo gia đình, con cái, không đóng góp về mặt kinh tế cho cuộc sống chung của gia đình. Về phía bị đơn, từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến phiên tòa hôm nay, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các giấy triệu tập, thông báo, quyết định nhưng vẫn vắng mặt. Điều này thể hiện bị đơn không có thiện chí hoà giải, hàn gắn, đoàn tụ. Hội đồng xét xử nhận thấy mặc dù địa phương chưa nhận được yêu cầu hòa giải mâu thuẫn nào giữa nguyên đơn và bị đơn nhưng cuộc sống gia đình nhất thiết phải có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nhưng nguyên đơn, bị đơn không thực hiện đúng và đủ trách nhiệm. Hiện nay, nguyên đơn bị đơn mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm đến nhau để xây dựng gia đình hạnh phúc. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét trình bày của nguyên đơn phù hợp với các tài liệu mà Tòa án thu thập được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.
Về con chung: Theo Giấy khai sinh (bản sao) số 232 Quyển số 01 ngày 10/12/2007 do UBND Phường 7, Quận 3, Thành phố H cấp cho trẻ Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 21/9/2007 có căn cứ xác định trẻ Khoa là con chung của nguyên đơn và bị đơn. Nay nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng.
Xét thấy, trong thời gian chung sống với nhau, bị đơn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người cha để chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ con cái. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không có văn bản gửi cho Tòa án về việc nuôi dưỡng con chung. Hiện nay, trẻ K đang sống chung với nguyên đơn. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng, phù hợp với nguyện vọng, điều kiện thực tế và quyền lợi của trẻ. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng.
Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khai không có, không yêu cầu Toà án giải quyết; bị đơn không có văn bản gửi cho Tòa án yêu cầu giải quyết tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Bình T chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn, nuôi con chung là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 63, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim H và ông Trần Minh L ly hôn.
Giấy chứng nhận kết hôn số 37, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận 3, Thành phố H cấp ngày 22/3/2007 cho bà Nguyễn Thị Kim H, ông Trần Minh L hết hiệu lực kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Giao cho bà Nguyễn Thị Kim H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 21/9/2007.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Kim H không yêu cầu ông Trần Minh Lcấp dưỡng nuôi con.
Ông Trần Minh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con chưa thành niên, khi cần thiết, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con.
3. Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị Kim H không yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề tài sản, nợ chung.
4. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim H phải chịu án phí là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu số 0004460 ngày 08/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Quận Bình T. Đương sự đã nộp đủ án phí.
5. Bà Nguyễn Thị Kim H, ông Trần Minh L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.
6. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 318/2019/HNGĐ-ST ngày 11/03/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 318/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về