Bản án 317/2020/HNGĐ-ST ngày 16/06/2020 về ly hôn giữa ông V, bà M

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 317/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2020 VỀ LY HÔN GIỮA ÔNG V, BÀ M

Ngày 16 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 930/2019/TLST-HNGĐ ngày 18/12/2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2020/QĐST- HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Anh V, sinh năm 1979 HKTT: 55 T, phường R, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Trà M, sinh năm 1985 HKTT: T20, phường P, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

Tạm trú: 25 H, Phường 09, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/11/2019, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 19/12/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Lê Anh V trình bày:

Về hôn nhân: Ông Lê Anh V và bà Nguyễn Trà M tự nguyện tiến tới hôn nhân. Hai bên đã làm đám cưới và đăng ký kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Rạch Dừa, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Giấy chứng nhận kết hôn số 64, do UBND phường Rạch Dừa, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp ngày 19/5/2008). Quá trình chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Mặc dù đã nhiều lần cố gắng hòa giải nhưng mỗi khi thảo luận về một vấn đề nào đó thì hai bên lại lớn tiếng cãi nhau nên không thể nói chuyện với nhau được, vì vậy đời sống hôn nhân càng ngày càng trầm trọng, không thể cứu vãn.

Vợ chồng ông V, bà M đã ly thân gần 2 năm nay và mỗi người đều đã có cuộc sống, công việc riêng không liên quan đến nhau. Vì vậy ông Lê Anh V xin ly hôn với bà Nguyễn Trà M.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Nguyễn My A, sinh ngày 17/5/2017 (nữ). Hiện nay cháu My A còn rất nhỏ và đang sống với mẹ. Ông V đề nghị để bà M được tiếp tục trực tiếp nuôi con đến tuổi trưởng thành và ông sẽ cấp dưỡng nuôi con theo khả năng.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông V xác định trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập bị đơn bà Nguyễn Trà M nhiều lần nhưng bị đơn đều vắng mặt, Tòa án đã tiến hành xác minh tại Công an Phường 9, quận Phú Nhuận thì bà Nguyễn Trà M hiện đang tạm trú tại địa chỉ số 25 H, Phường 9, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt giấy triệu tập đối với bị đơn theo quy định.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận phát biểu ý kiến xác định: việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; nguyên đơn thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung đại diện Viện Kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận nhận định:

[1] Về tố tụng: Do bị đơn bà Nguyễn Trà M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn ông Lê Anh V có đơn xin giải quyết vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

[2] Về hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 64, do UBND phường Rạch Dừa, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp ngày 19/5/2008, thể hiện hôn nhân giữa ông Lê Anh V và bà Nguyễn Trà M là hợp pháp.

Xét thấy, vợ chồng phải quan tâm chăm sóc, chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau, nhưng trong cuộc sống vợ chồng giữa ông V và bà M đã không còn có sự quan tâm, chăm sóc, chia sẻ dẫn đến nhiều mâu thuẫn phát sinh không thể khắc phục, việc bất đồng quan điểm càng ngày càng lớn làm cho đời sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, dẫn đến mục đích của hôn nhân không đạt được. Trên thực tế ông V và bà M đã ly thân, không còn sống chung một mái nhà. Do đó yêu cầu của ông V được ly hôn bà M là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình:

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Nguyễn My A, sinh ngày 17/5/2017 (nữ). Hiện nay cháu My A còn rất nhỏ. Theo công văn số 60/UBND ngày 31/3/2020 của Ủy ban nhân dân Phường A, quận Phú Nhuận xác minh tình trạng hôn nhân của bà Nguyễn Trà M và ông Lê Anh V thì hiện nay bà M đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Nguyễn My A. Do đó yêu cầu của ông V tiếp tục giao con chung cho bà Nguyễn Trà M trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Lê Anh V tự nguyện cấp dưỡng nuôi con theo khả năng.

 Ông V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở ông thực hiện quyền này.

Vì quyền lợi của con chung, khi có yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con hoặc hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc con của người không trực tiếp nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông V xác định không có nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về các vấn đề khác: đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về án phí: Ông V phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a,b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84 và 85 Luật Hôn nhân và gia đình:

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Lê Anh V và bà Nguyễn Trà M.

2. Về con chung: Giao 01 con chung tên Lê Nguyễn My A, sinh ngày 17/5/2017 (nữ) cho bà Nguyễn Trà M trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của ông V cấp dưỡng nuôi con theo khả năng.

Ông V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở ông thực hiện quyền này.

Vì quyền lợi của con chung, khi có yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con hoặc hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự khai không có.

4. Về án phí: Ông Lê Anh V phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ông V đã nộp theo biên lai số AA/2017/0042475 ngày 16/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận. Ông V đã nộp đủ án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 317/2020/HNGĐ-ST ngày 16/06/2020 về ly hôn giữa ông V, bà M

Số hiệu:317/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về