TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 317/2018/HS-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 325/2018/TLST- HS ngày 12 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 332/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Lê Hoàng T, sinh năm 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 35/1 khu phố L, phường Đ, thị xã D, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ máy; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Hoàng S, sinh năm 1966 và bà Trần Thị M, sinh năm 1968; có 02 anh, em ruột, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 22/6/2018 cho đến nay, có mặt.
2. Lê Văn T2, sinh năm 1991 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn 2, xã K, huyện T, tỉnh H; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn L, sinh năm 1958 và bà Lê Thị T3, sinh năm 1962; có 02 anh, chị ruột, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1989; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 09/7/2015 bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; bị bắt, tạm giam từ ngày 22/6/2018 cho đến nay, có mặt.
3. Nguyễn Thanh B, sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 105 đường số 2, khu phố 1, phường L, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1951 và bà Lê Thị D, sinh năm 1957; có 01 chị sinh năm 1987; tiền án: Ngày 22/02/2017 bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án hình sự số 62/2017/HSST, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 22/6/2018 cho đến nay, có mặt.
- Người chứng kiến:
1. Anh Nguyễn Minh C, sinh năm 1987; địa chỉ: Số 109/22/16 đường số 8, khu phố 1, phường L, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh;
2. Anh Dương Văn Hoàng T4, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ 12, khu phố 3, phường L, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Chị Trần Công Thị Thoại M, sinh năm 1995; địa chỉ: Số 13/50 khu phố Bình M, phường D, thị xã A, tỉnh Bình Dương;
4. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1995; địa chỉ: Ấp Vĩnh T, xã V, huyện P, tỉnh Bình Dương.
5. Anh Nguyễn Tấn T5, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp B, xã C, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
6. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1997; địa chỉ: Khu phố T, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Dương;
7. Anh Huỳnh Phi L, sinh năm 1988; địa chỉ: Hẻm 71, đường 8, khu phố 2, phường T, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tất cả người làm chứng đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 22/6/2018, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương phối hợp với công an phường Tân Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra nhà không số, tại khu phố T, phường Tân Đông H, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Qua kiểm tra phát hiện có 10 đối tượng đang sử dụng trái phép chất ma túy gồm: Lê Hoàng T, Lê Văn T2, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Minh C, Dương Văn Hoàng T4, Trần Công Thị Thoại M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Tấn T5, Nguyễn Văn C, Huỳnh Phi L và phát hiện ở chỗ các đối tượng đang ngồi có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng. Tiến hành kiểm tra phát hiện trong người Lê Hoàng T có 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá. Kiểm tra trong phòng phát hiện phía sau tủ lạnh trên nền gạch trong phòng có 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá.
Quá trình điều tra xác định:
Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 21/6/2018, Lê Văn T1 rủ Lê Hoàng T đến phường Tân Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương chơi. Khi đi T mang theo 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá bỏ trong túi quần đang mặc. T mua của một ngườitên T6 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại quận 9, thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 21/6/2018. Đến 00 giờ 30 phút ngày 22/6/2018, trong lúc Thạch đang sử dụng thì bị lực lượng công an bắt quả tang.
Vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 21/6/2018, Lê Văn T1 đang ở phòng trọ tại phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh thì Nguyễn Minh C điện thoại cho T1 nhờ kêu 05 người đến phòng trọ của Chí để giải quyết công việc. Sau khi nghe điện thoại thì T1 đến khu phố L, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương rủ T đi cùng, trên đường đi Nguyễn Thanh B gọi điện thoại cho T1 hỏi còn ma túy không mang đến phòng Chí thì T1 quay trở về bãi rác gần phòng trọ lấy ở chỗ Tiến giấu ma túy ra 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy (gói ma túy này T1 mua của một người đàn ông không rõ lai lịch tại khu vực cầu vượt Linh Xuân, quận T, thành phố Hồ Chí Minh vào tối ngày 20/6/2018) rồi đi đến phòng trọ của C. Tại phòng trọ của C, T1 đưa gói ma túy được bọc trong tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng cho B. Đến 00 giờ 30 phút ngày 22/6/2018, trong lúc T1, B đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng công an bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ: 02 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ của bị can T1; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu xanh của bị cáo B. Tờ tiền mệnh giá 2000 đồng.
Theo Kết luận giám định số 365/MT-PC54 ngày 26/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng có trong bì thư niêm phong, có chữ ký của bị cáo Lê Văn T1 và Nguyễn Thanh B gửi đi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,9632 gam, loại Methamphetamine.
Theo Kết luận giám định số 366/MT-PC54 ngày 26/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng có trong bì thư niêm phong, có chữ ký của bị cáo Lê Hoàng T gửi đi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,1738 gam, loại Methamphetamine.
Tại cáo trạng số: 329/QĐ - KSĐT ngày 12 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Lê Hoàng Thạch, Lê Văn T1 và Nguyễn Thanh B về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Lê Hoàng T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Lê Văn T1 mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Hoàng T, Lê Văn T1 và Nguyễn Thanh B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; những người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Vào khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 22/6/2018 tại nhà không số thuộc khu phố Đông T, phường H, thị xã D, tỉnh Bình Dương các bị cáo Lê Hoàng T, Lê Văn T1 và Nguyễn Thanh B đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện bắt giữ. Qua kiểm tra phát hiện trong người bị cáo Lê Hoàng T có 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá, phía sau tủ lạnh trên nền gạch trong phòng có 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá của bị cáo Lê Văn T1 và Nguyễn Thanh B. Theo kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể màu trắng trong bì thư niêm phong, có chữ ký của bị cáo Lê Văn T và Nguyễn Thanh B gửi đi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 0,9632 gam; mẫu tinh thể màu trắng trong bì thư niêm phong, có chữ ký của bị cáo Lê Hoàng T gửi đi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 0,1738 gam.
Tại Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;
c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
….”
Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Văn T và Nguyễn Thanh B cất giấu 0.9632 gam ma túy, loại Methamphetamine, bị cáo Lê Hoàng T cất giấu 0.1738 gam matúy, loại Methamphetamin nhằm mục đích sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Do đó Cáo trạng số: 329/QĐ - KSĐT ngày 12 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy, biết rõ tác hại của ma túy sẽ gây hiểm họa mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm, là mầm mống của nhiều loại tội phạm khác nhưng vẫn tàng trữ để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Vì vậy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Hoàng T và Lê Văn T không có. Riêng bị cáo Nguyễn Thanh B ngày 22/02/2017 bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 62/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/10/2017, bị cáo chưa được xóa án tích lại phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó Hội đồng xét xử xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
[6] Về nhân thân: Bị cáo Lê Hoàng T có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; bị cáo Tiến và Bình có nhân thân xấu. Ngày 09/7/2015 bị cáo T1 bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù, sau khi chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/11/2015, bị cáo không chịu sửa đổi làm người tốt mà tiếp tục phạm tội.
[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:
Đối với tên Thảnh đã bán ma túy cho bị cáo T và người đàn ông không rõ lai lịch đã bán ma túy cho T1, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật.
Đối với Nguyễn Minh C, Dương Văn Hoàng T4, Trần Công Thị Thoại M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Tấn T5, Nguyễn Văn C, Huỳnh Phi L có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã ra Quyết định xử phạt hành chính mỗi người số tiền 750.000 đồng là đúng quy định của pháp luật.
Đối với 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng liên quan đến hành vi phạm tội nên bị tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu xanh của bị cáo Nguyễn Thanh B và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ của bị cáo Lê Văn T1, sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.
Đối với số ma túy còn lại sau giám định gồm: 01 bì thư niêm phong chứa 0.8018gam ma túy Methamphetamine và 01 bì thư chứa 0.1001 gam ma túyMethamphetamine, là chất Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo và vấn đề xử lý vật chứng là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Lê Hoàng T, Lê Văn T1 và Nguyễn Thanh B phạmTội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Hoàng T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22 tháng 6 năm 2018.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Văn T1 01 (một) năm 10 (mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22 tháng 6 năm 2018.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22 tháng 6 năm 2018.
2. Xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 335/PC54 bên trong chứa tinhthể methamphetamine trọng lượng sau giám định 0.8018g, 01 bì thư niêm phong số 336/PC54 bên trong chứa tinh thể methamphetamine trọng lượng sau giám định 0.1001g và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu xanh, 01 điện thoại di động Nokia màu đỏ, 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng (Hai ngàn đồng).
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3. Án phí sơ thẩm:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Lê Hoàng T, Lê Văn T1 và Nguyễn Thanh B, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 317/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 317/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về