TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 316/2021/HS-PT NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 344 /2021/HSPT ngày 28/5/2021 đối với bị cáo Lê Văn G và Đặng Thanh B, về tội “Trộm cắp tài sản” và “Chống người thi hành công vụ”. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2021/HSST ngày 19/04/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1600/QĐXXPT-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021.
Bị cáo kháng cáo:
1. Lê Văn G, sinh ngày 27/9/1993 tại Đà Nẵng; nơi đăng ký NKTT và nơi cư trú: Tổ 04 phường A, quận S, tp Đà Nẵng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông (không xác định) và bà Lưu Thị T (còn sống); chưa có vợ, con; tiền sự: Không.
Tiền án:
- Ngày 14/6/2010, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 12/2010/HS-ST ngày 14/6/2010).
- Ngày 10/01/2011, bị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xử phạt:
30 (ba mươi) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 01/2011/HS-ST ngày 10/01/2011).
- Ngày 15/4/2016, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đà Nẵng xử phạt: 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 08/2016/HS-ST ngày 15/4/2016), chưa được xóa án tích.
- Ngày 22/8/2016, bị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xử phạt 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số 69/2016/HS-ST ngày 22/8/2018), chưa được xóa án tích.
Bị bắt tạm giam ngày 16/4/2020. Có mặt tại phiên tòa.
2. Đặng Thanh B (C), sinh ngày 12/4/1994 tại Đà Nẵng; nơi đăng ký NKTT và nơi cư trú: Tổ 04 phường T, quận S, tp Đà Nẵng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Đặng Bùi L và bà Phan Thị H (đều còn sống); chưa có vợ, con; tiền sự: Chưa;
Tiền án:
- Ngày 30/3/2013, bị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 20/2013/HS-ST ngày 30/3/2013 đã được xóa án tích).
- Ngày 08/02/2018, bị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xử phạt: 36 (ba sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 06/2018/HS-ST ngày 08/02/2018), chưa được xóa án tích.
Bị bắt tạm giam ngày 16/4/2020. Có mặt tại phiên tòa.
Người tham gia tố tụng khác:
Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn G: Luật sư Võ Văn Đ - Văn phòng Luật sư T, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. (có mặt)
Người bào chữa cho bị cáo Đặng Thanh B: Luật sư Lê Thị Thúy K - Công ty Luật TNHH MTVX, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng (có mặt).
Ngoài ra trong vụ án này còn có; Nguyễn Văn D và Nguyễn Hữu C đều bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, “Chống người thi hành công vụ” và bị cáo Nguyễn Hữu C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất má túy” nhưng không có kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền tiêu xài nên Lê Văn G, Nguyễn Văn D, Nguyễn Hữu C và Đặng Thanh B bàn bạc nhau đi trộm cắp tài sản, trong đó Lê Văn G là người khởi xướng việc đi trộm cắp tài sản và chuẩn bị công cụ một thanh sắt dài 40cm, một tuốc nơ vít dài 20cm dùng để cạy cửa đột nhập, Nguyễn Văn D là người thuê xe máy làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Tất cả các đối tượng phân công: D và B thực hiện điều khiển phương tiện và đứng ngoài cảnh giới. G và C thực hiện công việc đột nhập vào bên trong trộm cắp tài sản. Các đối tượng lựa chọn thời gian trộm cắp tài sản diễn ra vào đêm khuya, nhắm đến các nhà dân đã đi khỏi và khóa cửa bên ngoài, các khu dân cư ít người, ít người qua lại để đột nhập trộm cắp tài sản. Sau khi trộm cắp được tài sản thì C đem đi bán lấy tiền chia đều cho nhau.
Trong thời gian từ ngày 22/01/2020 đến ngày 07/03/2020, các đối tượng đã thực hiện tổng cộng 12 (mười hai) vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là: 885.796.980đ (Tám trăm tám mươi lăm triệu, bảy trăm chín mươi sáu nghìn chín trăm tám mươi đồng), cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ ngày 22/01/2020, D chở G, B chở C đi trên hai xe mô tô do D thuê đến nhà anh Ngô Văn P tại Tổ 35, phường H, quận L, tp.
Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây D và B đứng ngoài cảnh giới, C chui qua lỗ thông gió tại nhà vệ sinh phía sau vào bên trong mở cửa để G cùng đột nhập vào và lục tìm tài sản và phát hiện tại phòng ngủ tầng một có một két sắt đang để ở vị trí góc phòng, cả hai khiêng két sắt ra giữa phòng rồi lên kho ở tầng hai lấy một máy khoan, một búa đinh xuống đục, trong lúc đang đục két sắt thì nghe tiếng tri hô có trộm của quần chúng nhân dân nên G và C bỏ chạy ra ngoài lên xe D và B đang nổ máy chờ sẵn rồi D chở G, B chở C tẩu thoát.
Tại Kết luận định giá tài sản số: 180 ngày 29/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: Không định giá được giá trị của két sắt, căn cứ theo lời khai của bị hại và các tài liệu liên quan thì trị giá két sắt là 8.700.000đ (Tám triệu, bảy trăm nghìn đồng).
Vụ thứ hai: Khuya ngày 22/01/2020 rạng sáng ngày 23/01/2020, D chở G, B chở C đi trên hai xe mô tô do D thuê đến nhà của chị Lư Thị Thu H tại số 54 Ngọc Hồi, phường H, quận L, tp. Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây D và B đứng ngoài cảnh giới, G dùng một thanh sắt đặc dài 40cm bẻ gãy khóa cửa sắt kéo và cùng với C đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản và trộm được 05 (Năm) chỉ vàng 9999 và một Laptop hiệu Dell màu bạc. Chiếc máy Laptop hiệu Dell, D bán cho một người không rõ lai lịch và địa chỉ trên mạng được 1.500.000đ (Một triệu, năm trăm nghìn đồng), chia đều mỗi người được 375.000đ (Ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
Tại Kết luận định giá tài sản số: 36 ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận L, tp. Đà Nẵng kết luận 05 chỉ vàng 9999 và 01 máy tính xách tay trị giá: 25.285.000đ (Hai mươi lăm triệu hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng).
Vụ thứ ba: Khuya ngày 22/02/2020 rạng sáng ngày 23/02/2020, D chở G, B chở C đi trên hai xe mô tô do D thuê đến nhà của anh Hồ Nguyên D tại quận L, tp.
Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây D và B đứng ngoài cảnh giới, G dùng thanh sắt đặc dài 40cm phá cửa cổng, G đi vào bên trong tiếp tục dùng tuốc nơ vít cạy cửa chính của ngôi nhà và cùng với C đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản, cả hai phát hiện một két sắt tại phòng ngủ tầng hai và đi xuống tầng một gọi thêm D vào kéo két sắt xuống, cả ba dùng một chiếc chăn đắp trong phòng ngủ trùm lên két sắt và kéo từ tầng hai xuống tầng một. Lúc này B cũng vào bên trong và bốn người khiêng két sắt lên xe, B chở C ngồi sau ôm két sắt, D chở G chạy đến một bãi đất trống gần đó, dùng đá nhọn trên đường, thanh sắt và tuốc nơ vít để đục thủng hai lỗ mặt sau của két sắt lấy được 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng) chia đều nhau.
Tại Kết luận định giá tài sản số: 17 ngày 09/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận L, tp. Đà Nẵng kết luận: 01 két sắt và 01 cái mền trị giá 5.250.000đ. Tổng giá trị tài sản trộm cắp trong vụ án này là 23.250.000đ (Hai mươi ba triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Vụ thứ tư: Khuya ngày 22/03/2020 rạng sáng ngày 23/03/2020, D chở G đi trên xe mô tô do D thuê đến nhà của anh Phạm Quang T tại quận C, tp. Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. G dùng một thanh sắt đặc dài 40cm phá khóa cổng sắt bên ngoài, sau đó G đi vào bên trong tiếp tục dùng một tuốc nơ vít cạy cửa chính của ngôi nhà rồi cùng D đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản và trộm được 10.000.000đ (Mười triệu đồng), 01 (một) nhẫn đeo tay bằng vàng, 01 (một) đôi bông tai bằng vàng, 01 (một) laptop hiệu Asus màu đen, 01 (một) sợi dây chuyền bằng vàng tây có mặt hình trái tim, 01 (một) dây chuyền bạc và một con heo đất bên trong 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng).
Các bị cáo khai nhận 01 (một) nhẫn đeo tay bằng vàng, 01 (một) đôi bông tai bằng vàng, 01 (một)dây chuyền bạc, 01 (một) Laptop hiệu Asus màu đen giao cho D giữ. Sau đó, D cho em trai là Nguyễn Quốc C, sợi dây chuyền bạc và Laptop hiệu Asus. Hiện Cơ quan điều tra đã tạm giữ và xử lý vật chứng trả lại cho bị hại Phạm Quang T một Laptop hiệu Asus. Riêng sợi dây chuyền bạc C đã đổi sang một chiếc nhẫn bạc tại một tiệm bạc (không rõ địa chỉ cụ thể) tại phường A, quận S, tp. Đà Nẵng và hiện Cơ quan điều tra đang tạm giữ chiếc nhẫn trên.
Tại Kết luận định giá tài sản số: 174 ngày 26/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: số vàng không định giá được, 01 (một) Laptop trị giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Căn cứ theo lời khai bị hại cũng như các tài liệu liên quan thì tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong vụ này là 20.500.000đ (Hai mươi triệu năm trăm nghìn đồng).
Vụ thứ năm: Khuya ngày 22/03/2020 rạng sáng ngày 23/03/2020 (ngay sau vụ thứ tư), D chở G đi trên xe mô tô do D thuê đến nhà ông Huỳnh Văn M tại quận C, tp. Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. G dùng một thanh sắt đặc dài 40cm phá khóa cửa cổng đi vào bên trong và tiếp tục dùng một tuốc nơ vít cạy phá cửa chính xingfa của ngôi nhà và cùng D đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản. Cả hai phát hiện một két sắt tại phòng ngủ tầng hai và dùng một cái mền tại phòng ngủ trùm lên két sắt sau đó kéo từ tầng hai xuống tầng một rồi khiêng két sắt bỏ lên xe, D chở G ngồi sau ôm két sắt và chạy đến một bãi đất trống gần bờ sông dùng đá nhọn trên đường và thanh sắt để đục phá két sắt lấy tài sản gồm: 6.000.000đ (Sáu triệu đồng), 05 (năm) khâu vàng 9,8T mỗi khâu 02 (hai) chỉ (tổng cộng một lượng vàng 9,8T) và một chìa khóa xe Kia Forte.
Tại Kết luận định giá tài sản số:170 ngày 21/10/2020 cuả Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: Không định giá được két sắt và số vàng. Căn cứ vào lời khai của bị hại cũng như các tài liệu có liên quan xác định tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong vụ này là: 49.600.000đ (Bốn mươi chín triệu sáu trăm nghìn đồng).
Vụ thứ sáu: Khuya ngày 24/03/2020 rạng sáng ngày 25/03/2020, D chở G đi trên xe mô tô do D thuê đến nhà ông Trương Cư H tại quận N, tp Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây D đứng ngoài cảnh giới, G dùng một thanh sắt đặc dài 40cm cạy phá cửa chính xingfa và đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản. G phát hiện một con heo đất để tại bàn thờ ông địa tại phòng khách và lấy mang ra bãi đất trống bên cạnh đập lấy được 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) chia đều cho nhau.
Vụ thứ bảy: Khuya ngày 24/03/2020 rạng sáng ngày 25/03/2020 (ngay sau vụ thứ sáu), D chở G đi trên xe mô tô do D thuê đến nhà anh Nguyễn Chiếm N tại quận N, tp. Đà Nẵng (Sau lưng nhà vụ thứ sáu) để trộm cắp tài sản. G phát hiện cửa sau của ngôi nhà không khóa nên thò tay vào bên trong mở cửa rồi cùng với D đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản lấy được 1000 USD (Một ngàn Đô la Mỹ), 1000 tệ (Một ngàn nhân dân tệ), 38.000.000đ (Ba mươi tám triệu đồng) và 01 (một) Laptop hiệu HP màu đen. D bán Laptop qua mạng cho một người không xác định lai lịch và địa chỉ được 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng) chia đều cho mỗi người 550.000đ (Năm trăm năm mươi nghìn đồng), D bán 100 USD (Một trăm Đô la Mỹ), 1000 tệ (Một ngàn nhân dân tệ) cho một tiệm vàng không xác định địa chỉ được 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) và chia đều cho mỗi người được 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Tại Kết luận định giá tài sản số 165 ngày 20/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: Laptop không định giá được, tổng số ngoại tệ trị giá: 27.078.040đ (Hai mươi bảy triệu không trăm bảy mươi tám nghìn bốn mươi đồng), căn cứ lời khai của bị hại trị giá chiếc Laptop là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong vụ này là: 66.078.040đ (Sáu mươi sáu triệu không trăm bảy mươi tám nghìn bốn mươi đồng).
Vụ thứ tám: Vào một đêm khoảng tháng 01/2020, G chở D và C đi trên xe mô tô do D thuê đến nhà chị Nguyễn Thị Tố U quận N, tp. Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây, G đứng ngoài cảnh giới, D và C đột nhập vào bên trong. D phát hiện cửa nhà không khóa nên dùng tay giật mạnh cửa chính của ngôi nhà và cùng C vào bên trong lục tìm tài sản. D lấy được một điện thoại Black Berry màu đen bạc, D lấy chìa khóa xe ô tô mở khóa để C lục tìm tài sản bên trong nhưng không có tài sản gì. Điện thoại trộm cắp được D sử dụng cho đến khi bị bắt. Cơ quan điều tra đã tạm giữ chiếc điện thoại từ bị can D và xử lý vật chứng trả lại cho bị hại Nguyễn Thị Tố U.
Tại Kết luận định giá tài sản số 175 ngày 26/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: 01 (một) điện thoại di động Black berry trị giá 3.030.000đ (Ba triệu không trăm ba mươi nghìn đồng).
Vụ thứ chín: Vào một đêm khoảng tháng 01/2020 (ngay sau vụ thứ tám), G chở D và C đi trên xe mô tô do D thuê đến nhà của anh Trần Văn C tại quận N, tp. Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây, G đứng ngoài cảnh giới, D và C trèo qua cổng chính của ngôi nhà vào bên trong. C dùng một thanh sắt đặc dài 40cm cạy phá cửa chính của ngôi nhà và cùng với D đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản và trộm được 10.000.000đ (Mười triệu đồng), 200USD (Hai trăm Đô la Mỹ) và 01 (một) điện thoại cảm ứng. Tiền mặt chia nhau mỗi người được 3.300.000đ (Ba triệu ba trăm nghìn đồng). 200 USD C bán cho một tiệm vàng không xác định địa chỉ, điện thoại cảm ứng bán qua mạng cho một đối tượng không xác định được tổng cộng 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và chia đều cho mỗi người được 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng).
Tại Kết luận định giá tài sản số 166 ngày 20/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: 01 (một) điện thoại không định giá được, 200 USD trị giá 4.661.000đ (Bốn triệu sáu trăm sáu mốt nghìn đồng). Bị hại khai điện thoại trị giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong vụ này là: 15.661.000đ (Mười lăm triệu sáu trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
Vụ thứ mười: Khuya ngày 07/03/2020 rạng sáng ngày 08/03/2020, trước khi đi trộm, cả nhóm thống nhất mang theo bình xịt hơi cay giao cho G cầm, mục đích để chống trả lại người dân và lực lượng công an khi bị phát hiện để tẩu thoát. D chở G, B chở C đi trên hai xe mô tô do D thuê đến nhà chị Nguyễn Thị Thu H tại tỉnh Quảng Nam để trộm cắp tài sản. Tại đây D và B đứng ngoài cảnh giới, G và C đột nhập vào bên trong lục tìm tài sản trộm được 01(một) Macbook màu bạc, 01(một) điện thoại Iphone 6s màu xám bạc, một con heo đất bên trong có 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), 01 (một) Ipad màu xám bạc ở trong nhà và phát hiện một két sắt tại tầng hai bên trong két sắt có 11.154 USD (Mười một ngàn một trăm năm mươi tư Đô la Mỹ), 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng), và một số trang sức bằng vàng. G và C xuống gọi D và B vào nhà, các đối tượng dùng một cái mền màu xanh trắng trùm lên két sắt và cùng nhau kéo từ tầng hai xuống tầng một rồi khiêng lên xe, B chở C ngồi sau ôm két sắt, D chở G chạy về hướng tp. Đà Nẵng.
Khi về đến ngã năm L, N, N, S quận N, tp. Đà Nẵng thì gặp tổ tuần tra 8394 của Công an phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng đi trên hai xe mô tô do anh Đặng Văn H (cán bộ CA p. H làm tổ trưởng) chở theo anh Lê Văn L (Dân quân tự vệ phường H), anh Phùng A (Bảo vệ dân phố phường H) chở anh Trần Văn K (cán bộ CA p. H) đang tuần tra. Phát hiện các đối tượng có biểu hiện nghi vấn nên tổ tuần tra 8394 yêu cầu dừng xe lại để kiểm tra nhưng các đối tượng không chấp hành và bỏ chạy.
B chở C ngồi sau ôm két sắt chạy vào đường S, thấy vậy xe của tổ tuần tra 8394 do anh A chở anh K chạy trước đuổi theo, xe của anh H chở anh L cũng chạy theo sau hỗ trợ. Lúc này D chở G từ phía sau chạy lên ép đầu xe anh H và anh L thì G dùng tay phải cầm bình xịt hơi cay kẹp giữa hai chân đã chuẩn bị từ trước hướng về phía anh H và anh L xịt hai lần, mỗi lần ấn xịt khoàng một giây làm cho anh L và anh H bị cay mắt và hạn chế tầm nhìn. Sau khi xịt hơi cay thì D chở G tăng ga bỏ chạy vào một kiệt trên đường S (cách ngã năm khoảng 100m) chạy theo hướng của B và C bị truy đuổi B và C chạy vào kiệt trên đường S thì bị xe của anh A và anh K đuổi theo kịp. Khi xe của anh A và K cách xe của B và C khoảng 20m thì B và C vứt két sắt xuống đường để tăng ga bỏ chạy. A Phùng A và K đuổi theo nhưng không kịp. D và G chạy vào trong kiệt không thấy B và C ở đâu nên quay đầu xe lại để chạy ra. Lúc này xe của anh H và L mặc dù bị xịt hơi cay nhưng vẫn bám đuổi D và G, khi rẽ vào kiệt trên đường S thì phát hiện D và G chạy ngược ra. A H dùng súng tuần tra mang theo bắn chỉ thiên và yêu cầu dừng lại, hai đối tượng hoảng loạn làm rơi ba lô đựng tài sản trộm cắp và tăng ga bỏ chạy ra hướng đường S. A H và L đuổi theo nhưng không kịp. Tổ tuần tra tạm giữ tất cả các tài sản các đối tượng vứt lại mang về phường để làm việc. Các đối tượng sau khi chạy thoát hẹn nhau tập trung tại chân cầu T S, tp Đà Nẵng. Tại đây D và G kể cho C và B nghe việc G xịt hơi cay vào tổ tuần tra. D và G trên đường chạy về thì vứt bình xịt hơi cay lại ven đường (không nhớ địa chỉ).
Tại Kết luận định giá tài sản số 13 ngày 23/03/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam kết luận: Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 287.132.940đ (Hai trăm tám mươi bảy triệu một trăm ba mươi hai nghìn chín trăm bốn mươi đồng), bị hại khai mất 01 (một) con heo đất chứa 4.000.000đ (Bốn triệu đồng). Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong vụ này là: 291.132.940đ (Hai trăm chín mươi mốt triệu một trăm ba mươi hai nghìn chín trăm bốn mươi đồng).
Vụ thứ mười một: Khuya ngày 08/02/2020 rạng sáng ngày 09/02/2020, D chở G. B chở C đi trên hai xe mô tô do D thuê đến địa chỉ quán cà phê N trên phường H, quận N, tp. Đà Nẵng do chị Huỳnh Thị Hải Ngọc là chủ để trộm cắp tài sản. Tại đây, D và B đứng ngoài cảnh giới, G dùng một thanh sắt đặc dài 40cm phá ổ khóa bên ngoài đi vào bên trong tiếp tục dùng tuốc nơ vít để cạy phá cửa của quán rồi cùng với C đột nhập vào trong quán lục tìm tài sản trộm được tiền mặt 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng), 01 (một) nhẫn bạc PNJ trên mặt có đính đá, 01 (một) đồng hồ hiệu WD màu đen, 01 (một) đồng hồ hiệu SKAGEN màu bạc, 01 (một) Ipad mini 3 màu trắng và 01 (một) điện thoạt OPPO màu vàng.
Các bị cáo khai nhận tiền mặt các đối tượng chia đều, Ipad C bán trên mạng cho một đối tượng (không rõ lai lịch) được 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) và chia đều cho một người được 100.000đ (Một trăm nghìn đồng). Hai đồng hồ giao cho G giữ, G đã làm thất lạc và bị mất.
Tại Kết luận định giá tài sản số 166 ngày 20/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: Không định giá được tổng số tài sản bị chiếm đoạt. Căn cứ lời khai của bị hại và các tài liệu liên quan xác định tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong vụ này là: 35.200.000đ (Ba mươi lăm triệu hai trăm nghìn đồng).
Vụ thứ mười hai: Khuya ngày 08/02/2020 rạng sáng ngày 09/02/2020 (ngay sau khi thực hiện xong vụ thứ mười một), D chở G, B chở C đi trên hai xe mô tô do D thuê đến nhà của anh Bồ Xuân P tại phường H, quận N, tp. Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Tại đây, D và B đứng ngoài cảnh giới, G dùng một thanh sắt đặc dài khoảng 60cm cạy phá khóa cổng bên ngoài, G và C đi vào bên trong, G tiếp tục dùng một tuốc nơ vít cạy phá cửa chính của ngôi nhà rồi G và C đột nhập vào bên trong để lục tìm tài sản. G phát hiện tại tầng hai của ngôi nhà có một két sắt, G và C xuống gọi thêm B và D vào bên trong để kéo két sắt xuống. Cả bốn dùng một cái mền trong phòng ngủ phủ lên két sắt, kéo từ tầng hai xuống tầng một và kéo ra ngoài sân khiêng lên xe. D chở G, B chở C ngồi sau ôm két sắt và chạy ra một bãi đất trống cạnh bờ sông để đục phá két sắt lấy được 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng), 30.000 tệ (Ba mươi ngàn tệ), 300 USD (Ba trăm Đô la Mỹ), 01 (một) sợi dây chuyền vàng và 01 (một) điện thoại Iphone 6s.
C bán 30.000 tệ (Ba mươi ngàn nhân dân tệ), 300 USD (Ba trăm Đô la Mỹ),01 (một) sợi dây chuyền vàng cho một tiệm vàng không xác định địa chỉ được 68.000.000đ (Sáu mươi tám triệu đồng), C bán điện thoại Iphone 6s qua mạng cho một đối tượng (không rõ lai lịch) được 2.000.000đ (Hai triệu đồng) và chia đều cho 04 người.
Tại Kết luận định giá tài sản số 22 ngày 05/03/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tp. Đà Nẵng kết luận: 01 (một) két sắt trị giá 3.750.000đ (Ba triệu bảy trăm năm mươi ngàn đồng); 01 (một) điện thoại Iphone 6s trị giá 6.400.000đ (Sáu triệu, bốn trăm ngàn đồng), dây chuyền vàng và 01 (một) cái chăn không định giá được. Căn cứ văn bản trả lời về tỷ giá đồng ngoại tệ tại thời điểm 09/02/2020 của Ngân hàng Nhà nước thì 1 USD = 23.201đ; 1 NDT = 3.325đ, căn cứ lời khai của bị hại sợi dây chuyền trị giá 23.000.000đ (Hai ba triệu đồng). Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trong vụ này là: 339.860.300đ (Ba trăm ba mươi chín triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng làm tròn số).
Tổng giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp trong 12 (Mười hai) vụ trộm là: 885.796.980 đ (Tám trăm tám mươi lăm triệu,bảy trăm chín mươi sáu nghìn chín trăm tám mươi đồng).
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2021/HSST ngày 19/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
I. Về tội danh:
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn G, Đặng Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Chống người thi hành công vụ.
II. Về hình phạt:
2.1. Căn cứ: Điểm a khoản 4 Điều 173; các điểm a, b, g, h khoản 1 Điều 52, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Lê Văn G: 14 (mười bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: Điểm a, đ khoản 2 Điều 330, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Lê Văn G: 04 (bốn) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.
Căn cứ: Điều 55 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 (hai) tội buộc bị cáo phải chấp hành là: 18 (Mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/4/2020.
2.2.Căn cứ: Điểm a khoản 4 Điều 173; các điểm a,b,g, h khoản 1 Điều 52, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Đặng Thanh B: 12 (mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: Điểm a khoản 2 Điều 330, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Đặng Thanh B: 02 (hai) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.
Căn cứ: Điều 55 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 (hai) tội buộc bị cáo phải chấp hành là:
14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/4/2020.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn Quyết định hình phạt đối với Nguyễn Văn D và Nguyễn Hữu C, quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo của các bị cáo.
Trong hạn luật định bị cáo Đặng Thanh B và Lê Văn G làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo.
Người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Để có tiền chi tiêu phục vụ cho nhu cầu mục đích cá nhân, các bị cáo G, D, C và B đã bàn bạc thống nhất cùng nhau đi trộm cắp tài sản, trong đó G là người khởi xướng và chuẩn bị công cụ gồm 01 (một) thanh sắt dài 40cm, 01 (một) tuốt nơ vít dài 20 cm dùng để cạy cạy cửa đột nhập khi thực hiện việc trộm cắp, D là người thuê xe máy làm phương tiện đi lại, các bị cáo phân công D, B có nhiệm vụ điều khiển phương tiện và đứng ngoài cảnh giới, còn G và C có nhiệm vụ đột nhập vào bên trong để trộm cắp tài sản, thời điểm các bị cáo chọn để thực hiện hành vi trộm cắp là những nơi vắng vẻ, ít người qua lại vào lúc đêm khuya nhằm tránh sự phát hiện, tài sản trộm cắp được C là người mang đi bán rồi lấy tiền chia nhau tiêu xài; với động cơ mục đích nêu trên. Trong khoảng thời gian từ ngày 22/01/2020 đến ngày 07/3/2020 các bị cáo đã cùng nhau lén lút đột nhập vào nhà của những người bị hại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam trộm cắp tài sản gồm 12 (mười hai) lần với tổng giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt được của những người bị hại là: 885.796.980 đ (Tám trăm tám mươi lăm triệu bảy trăm chín mươi sáu nghìn chín trăm tám mươi đồng).
Trong đó xác định: Các bị cáo G tham gia đủ 12 (mười hai) lần và bị cáo B tham gia 06 (sáu) lần với giá trị tài sản chiếm đoạt: 723.727.940đ (Bảy trăm hai mươi ba triệu bảy trăm hai mươi bảy ngàn chín trăm bốn mươi đồng) chia nhau tiêu xài cho mục đích cá nhân.
Ngoài việc bàn bạc cùng thực hiện hành vi trộm cắp như đã nêu trên, các bị cáo còn thống nhất với nhau trong việc chuẩn bị công cụ hổ trợ bình xịt hơi cay nhằm mục đích chống trả lại người dân, hoặc lực lượng công an đang thi hành công vụ khi đang thực hiện hành vi phạm tội bị phát hiện để tẩu thoát. Vì vậy, đêm ngày 07/3/2020 rạng sáng ngày 08/3/2020 các bị cáo sau khi đột nhập vào nhà bị hại bà Nguyễn Thị Thu H tại tỉnh Quảng Nam lấy trộm được tài sản, sau khi lấy được tài sản các bị cáo trên đường vận chuyển tài sản trộm được từ Đ về Đà Nẵng thì bị lực lượng tổ tuần tra 8394 của Công an phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng đang trên đường đi làm nhiệm vụ phát hiện nên lập tức yêu cầu các bị cáo dừng phương tiện để kiểm tra, tuy nhiên, các bị cáo không những không chấp hành mà mà có hành vi chống trả quyết liệt bằng hình thức sử dụng bình xịt hơi cay mang theo tấn công vào lực lượng công an đang làm nhiệm vụ rồi vứt bỏ tài sản trộm cắp được để tẩu thoát.
Với những hành vi và hậu quả nêu trên của từng bị cáo gây ra; Bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và “Chống người thi hành công vụ” là có căn cứ đúng pháp luật.
[2] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Đối với bị cáo Lê Văn G là người khởi xướng, đồng thời là người chuẩn bị công cụ thanh sắt, tuốt nơ vít để cạy cửa và khi thực hiện hành vi trộm cắp bị cáo là người trực tiếp đột nhập vào bên trong lục tìm lấy trộm tài sản, trong 12 (mười hai) lần cùng đồng phạm trộm cắp tài sản bị cáo tham gia đủ 12 (mười hai) lần, giá trị tài sản bị cáo tham gia chiếm đoạt nhiều hơn so với các bị cáo C, B, mặt khác khi bị lực lượng làm nhiệm vụ phát hiện thì bị cáo chính là người cầm bình xịt hơi cay xịt (đã chuẩn bị trước đó) xịt vào lực lượng công an một cách quyết liệt để giải vay cho đồng phạm tẩu thoát, hành vi của bị cáo cùng một lúc phạm hai tội đặt biệt nghiêm trọng và nghiêm trọng, nhân thân của bị cáo rất xấu đã nhiều lần bị Tòa án các cấp xét xử về hành vi “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 330 Bộ luật hình sự về tội danh “Chống người,thi hành công vụ”.
[2.2] Đối với bị cáo Đặng Thanh B cũng là đồng phạm trong vụ án, tham gia với vai trò tích cực là người được phân công sử dụng phương tiện xe máy chở đồng phạm đi và về sau mỗi lần trộm cắp được tài sản, đồng thời là người đứng ngoài cảnh giới để đồng phạm đột nhập vào bên trong trộm cắp tài sản, tuy nhiên, trong vụ án này bị cáo chỉ tham gia 06 (sáu) lần với giá trị tài sản chiếm đoạt có ít hơn các đồng phạm khác, ngoài việc cùng đồng phạm tham gia trộm cắp thì đêm ngày 07/3 rạng sáng ngày 08/3/2020 bị cáo cũng cùng thực hiện hành chống trả không chấp hành việc kiểm tra đối với người đang thi hành công vụ nhằm tẩu thoát, do vậy cùng một lúc bị cáo cũng phạm 02 (hai) tội đặc biệt nghiêm trọng và nghiêm trọng, nhân thân bị cáo cũng là người có tiền án chưa được xóa án tích, tuy không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm như các đồng phạm khác, nhưng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ vai trò phạm tội, nhân thân của từng bị cáo, đồng thời áp dụng đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Lê Văn G: 14 (mười bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự và 04 (bốn) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ” theo điểm a, đ khoản 2 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 là thỏa đáng và không nặng. Xử phạt bị cáo Đặng Thanh B: 12 (mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự và 02 (hai) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ” theo điểm a khoản 2 Điều 330 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không có tình tiết giảm nhẹ nào mới cần áp dụng cho các bị cáo được hưởng, do vậy đơn kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận.
[3] Về án phí:Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn G, Đặng Thanh B.
Giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2021/HS-ST ngày 19/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
I. Về tội danh:
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn G, Đặng Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Chống người thi hành công vụ”;
II. Về hình phạt:
2.1. Căn cứ: Điểm a khoản 4 Điều 173; các điểm a, b, g, h khoản 1 Điều 52, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Lê Văn G: 14 (mười bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: Điểm a, đ khoản 2 Điều 330, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Lê Văn G: 04 (bốn) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.
Căn cứ: Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 (hai) tội buộc bị cáo phải chấp hành là: 18 (Mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/4/2020.
2.2. Căn cứ: Điểm a khoản 4 Điều 173; các điểm a, b, g, h khoản 1 Điều 52, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Đặng Thanh B: 12 (mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: Điểm a khoản 2 Điều 330, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Đặng Thanh B: 02(hai) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.
Căn cứ: Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Tổng hợp hình phạtchung cho cả 02 (hai) tội buộc bị cáo phải chấp hành là:
14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 16/4/2020.
III. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Văn G và Đặng Thanh B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 316/2021/HS-PT ngày 21/07/2021 về tội trộm cắp tài sản và chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 316/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về