Bản án 315/2020/HSST ngày 13/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 315/2020/HSST NGÀY 13/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 13 tháng 08 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 326/2020/HSST ngày 10/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 306/2020/QĐXXST ngày 24/7/2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn T; Sinh ngày 12 tháng 3 năm 1971 Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

- Nơi ĐKHKTT: Xóm 1/5, xã Vô Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 5/10; Con ông: Nguyễn Văn Bảo (Đã chết); Con bà: Phùng Thị Thơ (Đã chết); Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ 02;Vợ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1974; Con: Có 01 con sinh năm 2009;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/5/2020 đến ngày 29/5/2020. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1974(Có mặt) Địa chỉ: Xóm Giếng, xã Hồng Tiến, TX Phổ Yên, tỉnh TH

* Người chứng kiến: Phạm Tiến D, sinh năm 1984(Vắng mặt) Địa chỉ: Xóm Nam Tiến,xã Phúc Hà, Tp TH, tỉnh TH

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 5 phút ngày 20/5/2020, tổ công tác Công an xã Phúc Hà, thành phố TH làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Mỏ, xã Phúc Hà, thành phố TH phát hiện một người đàn ông điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen BKS: 20M1-0290 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai tên là Nguyễn Văn T. Quá trình kiểm tra, T tự giác giao nộp từ lòng bàn tay trái cho tổ công tác 01 gói giấy màu trắng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng, T khai là Heroine mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn T và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen BKS: 20M1-0290, số khung: Y 20690, số máy: HC09E-5519965.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH đã tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T có khối lượng là 0,2 6 gam và lấy mẫu gửi giám định ký hiệu T.

Tại bản Kết luận giám định số 306 /C09 -TT2 ngày 29/5/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu chất bột màu tr ắng (niêm phong ký hiệu T) gửi giám định là ma túy, loại : Heroine. Bản Kết luận giám định số 752/KL-KTHS ngày 12/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Khối lượng chất bột màu trắng thu giữ ban đầu của Nguyễn Văn T là: 0,246 gam.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Văn T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 11 giờ 00 phút ngày 20/5/2020, T điều khiển xe mô tô BKS: 20M1-0290 từ thành phố Sông Công đến khu vực mỏ than Khánh Hòa thuộc xã Phúc Hà, thành phố TH để tìm mua Heroine sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Mua xong, T cầm Heroine trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của Công an xã Phúc Hà, thành phố TH phát hiện, kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận của Nguyễn Văn T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: 306 /C09(TT2) bên trong chứa mẫu vật giám định và vỏ bao gói mẫu; 01 xe mô tô BKS: 20M1-0290, số khung: Y 20690, số máy: HC09E-5519965.

Tại bản cáo trạng số 337/CT - VKSTPTN, ngày 20/7/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, tỉnh TH đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TH giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249, điểm s khoản 1,Điều 51, Điều 38 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo .

- Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 7 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: 306 /C09(TT2) bên trong chứa mẫu vật giám định và vỏ bao gói mẫu;

- Trả lại chiếc xe mô tô BKS: 20M1-0290, số khung: Y 20690, số máy: HC09E-5519965 cho chị Nguyễn Thị Th sở hữu, sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, T diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] . Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 11 giờ 5 phút ngày 20/5/2020, tại xóm Mỏ, xã Phúc Hà, thành phố TH, tỉnh TH, Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ 0,2 6 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an xã Phúc Hà, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn T có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c,... Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] . Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma túy là mặt hàng cấm do Nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma túy đã dẫn bị cáo tới con đường phạm tội, việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết nhằm răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhưng là người nghiện ma túy. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy song do nghiện ma túy không từ bỏ được nên đã có hành vi mua ma túy sử dụng cho bản thân dẫn đến phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có Th độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy tại phiên tòa bị cáo có Th độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo có phần nghiêm khắc với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 2 9 BLHS, tuy nhiên bị cáo là người nghiện ma túy, có thu nhập ổn định, không có tài sản gì riêng, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về vật chứng vụ án:

- Cần Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: 306 /C09(TT2) bên trong chứa mẫu vật giám định và vỏ bao gói mẫu;

- Về chiếc xe mô tô BKS: 20M1-0290, số khung: Y 20690, số máy: HC09E-5519965, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai chiếc xe trên là tài sản riêng của vợ bị cáo là chị Nguyễn Thị Th có trước khi kết hôn với bị cáo, ngày 20/5/2020 bị cáo sử dụng chiếc xe trên đi mua mua túy, vợ bị cáo không biết. Chị Nguyễn Thị Th trình bày chiếc xe trên là tài sản riêng của chị trước khi kết hôn với bị cáo T, chị đề nghị được trả lại chiếc xe trên. HĐXX xác định chiếc xe trên là tài sản riêng của chị Th có trước khi kết hôn với T, bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy, chị không biết, nên trả lại cho chị Nguyễn Thị Th sở hữu, sử dụng chiếc xe mô tô trên sở hữu, sử dụng là phù hợp.

[8]. Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Nguyễn Văn T khai mua của một người phụ nữ không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực đường vào mỏ than Khánh Hòa thuộc xã Phúc Hà, thành phố TH vào ngày 20/5/2020 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật

[10]. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 2 9; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T: 18( Mười tám) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án( được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 20/5/2020 đến ngày 29/5/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 7 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị Th 01 xe mô tô đã qua sử dụng, nhãn hiệu HONDA, BKS: 20M1 -0290, màu sơn đen, số loại WAVE, loại hai bánh từ 50 - 70cm3, dung tích xilanh 97, số khung: Y 20690, số máy: HC09E – 5519965 quản lý sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: 306 /C09(TT2) (bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Viện KHHS Bộ Công an và chữ ký ghi họ tên Nguyễn Thị Thu Loan và Bàng Văn Tiến;

(T bộ vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 382 ngày 09/7/2020 tại Chi cục THADS thành phố TH, tỉnh TH)

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 315/2020/HSST ngày 13/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:315/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về