TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 315/2019/HS-PT NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 318/2019/HSPT ngày 19 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo Nguyễn Đức D, Mai Trà M về tội “mua bán trái phép chất ma túy”, do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 231/2019/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức D.
- Bị cáo bị kháng nghị:
1. Họ và tên: Nguyễn Đức D; Sinh năm 1989; Tại: Tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không ;Tiền án, tiền sự: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Hồng M1; Con bà Phan Thị L; Bị cáo có vợ là Hồ Thị L1; Có 01 con sinh năm 2009. Bị cáo bị bắt từ ngày 17/4/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.
2. Họ và tên: Mai Trà M; Tên gọi khác: Bé M; Sinh năm 2000; Tại: tỉnh Đắk Lắk;Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Thôn B, xã H, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không ;Tiền án, tiền sự: Không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông Mai Văn B, con bà Nguyễn Thị Diểm K. Bị cáo bị bắt từ ngày 17/4/2019, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
D và M là bạn bè và đều sử dụng ma túy. Để có tiền tiêu xài D và M bàn bạc với nhau đi mua mà túy về bán cho các người nghiện khác để kiếm lời. Vào 17 giờ ngày 16/4/2017 có người điện cho M hỏi mua 04 viên ma túy loại thuốc lắc, M liền gọi cho D có ma túy bán không thì D đồng ý rồi D gọi điện thoại cho người phụ nữ tên là N. N đồng ý bán ma túy cho D ở tại địa điểm đường T, phường T, Thành phố B, với giá 2.750.000đ gồm 05 viên thuốc lắc và 01 chấm khay ( ma túy loại Ketamiene), mua xong D mang về phòng trọ số 3, địa chỉ 122/18 Đường M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cất dấu trên kệ treo gương trong phòng trọ, rồi điện cho M để thống nhất số tiền lời chênh lệch. Lúc này M điện thọai cho một người phụ nữ mua ma túy với giá 04 viên ma túy và 01 chấm khay là 2.800.000đ người mua đông ý và hẹn địa điểm, thời gian giao hàng, liền sau đó M điện thoại với nội dung trên cho D. D bỏ ma tuy mua về vào trong cốp xe để đi bán rồi điều khiển xe mô tô đến khu vực đường Y giao với đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột yêu cầu dừng xe để kiểm tra và phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ trong hộc phía trước bên trái của chiếc xe mô tô 01 (một) gói nylon bên trong có chứa 04 (bốn) viên nén hình tròn màu xanh và 01 (một) gói nylon bên trong có chứa chất bột màu trắng đã được niêm phong theo quy định pháp luật (gói kí hiệu M1).
Tiến hành khám xét khẩn cấp tại phòng trọ số 3, địa chỉ số 122/18 M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, phát hiện trên kệ gương treo tường trong phòng trọ 01 (một) viên nén hình tròn màu xanh và 02 (hai) gói nylon chứa chất rắn dạng bột màu trắng được niêm phong theo quy định pháp luật (giói kí hiệu M2).
Tại Kết luận giám định số 319/GĐMT-PC09 ngày 23/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận:
Phong bì M1: 04 (bốn) viên nén hình tròn màu xanh được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,3673 gam loại MDMA; Chất rắn dạng bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3410 gam, loại Ketamine.
Phong bì M2: 01 (một) viên nén hình tròn màu xanh được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3070 gam loại MDMA; Chất rắn dạng bột màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4028 gam, loại Ketamine.
Tổng khối lượng ma túy là: 2.4181 gam. Ngoài ra bị cáo D còn khai nhận: Ngày 12/4/2019, D một mình đến khu vực đường T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk gặp một người nam giới (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 02 gói ma túy loại Ketamine với số tiền 1.300.000 đồng, sau đó mang về phòng trọ số 3, địa chỉ số 122/18 M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để bán kiếm lời.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 231/2019 ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức D và bị cáo Mai Trà M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Đức D 04 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt (ngày 17/4/2019).
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: bị cáo Mai Trà M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt (ngày 17/4/2019).
Ngoài ra bản án còn tuyên về về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/9/2019 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điểm b khoản 2 điều 251 BLHS để xét xử bị cáo Nguyễn Đức D về tội “ mua bán trái phép chất ma tuy” và tăng hình phạt đối với 02 bị cáo D và M.
Ngày 30/8/2019 bị cáo Nguyễn Đức D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên toà phúc thẩm,bị cáo Nguyễn Đức D, Mai Trà M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm, cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Bị cáo D thừa nhận mua hai lần và bán một lần ma túy, nhưng không chấp nhận nội dung kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tăng hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm và nội dung Quyết định kháng nghị số: 25/2019QĐ-VKS-P7 ngày 20/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đồng thời phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 251 BLHS để xét xử bị cáo Nguyễn Đức D là chưa tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, cần áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS để xét xử bị cáo Nguyễn Đức D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời tăng hình phạt tù đối với cả hai bị cáo Nguyễn Đức D và Mai Trà M. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 231/2019 ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột về áp dụng pháp luật và tăng hình phạt đối với bị cáo, Nguyễn Đức D 7 năm tù đến 7 năm 06 tháng tù; Bị cáo Mai Trà M 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.
Các bị cáo Nguyễn Đức D, Mai Trà M không tranh luận vấn đề gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, cả hai bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của hai bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 23 giờ ngày 16/4/2019 tại khu vực đường Y giao với đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Nguyễn Đức D cùng bị cáo Mai Trà M đã thực hiện hành vi mua bán trái phép 1,3673 gam chất ma túy loại MDMA và 0,3410 gam chất ma túy loại Ketamine. Ngày 12/4/2019 tại khu vực đường T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Nguyễn Đức D còn có hành vi mua bán trái phép 0,3070 gam chất ma túy loại MDMA và 0,4028 gam chất ma túy loại Ketamine, mục đích để bán thu lợi. Do đó Bản án hình sự sơ thấm số 231/2019/HS-ST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức D và bị cáo Mai Trà M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng nghị số 25/2019 QĐ-VKS-P7ngày 20/9/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, với nội dung Tòa án thành phố Buôn Ma Thuột áp dụng khoản 1 Điều 251 BLHS để xét xử bị cáo Nguyễn Đức D là chưa tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, kháng nghị Bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS để xét xử bị cáo D về tội “ mua bán trai phép chất ma túy”. Đồng thời tăng hình phạt đối với hai bị cáo D và bị cáo M. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy:
[2.1] Trong khoảng thời gian từ ngày 12/4/2019 đến ngày 16/4/2019, bị cáo D đã thực hiện nhiều lần việc mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố B với tổng khối lượng ma túy là 2,4181 gam ma túy. Như vậy bị cáo D đã nhiều lần phạm tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng khoản 1 điều 251 BLHS và cho rằng bị cáo D phạm tội 02 lần là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS để xét xử bị cáo D là chưa đúng trong việc áp dụng pháp luật, mà phải áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS để xét xử bị cáo D mới phù hợp. Do đó, xét kháng nghị chuyển khung hình phạt đối với bị cáo D của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Lăk là có căn cứ, cần chấp nhận.
[2.2] Đối với nội dung kháng nghị yêu cầu tăng mức hình phạt với hai bị cáo D và M, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bị cáo Nguyễn Đức D và bị cáo Mai Trà M tuy cả hai đều có nhân thân tốt, tuổi đời còn trẻ nhưng lại ham chơi và thích cuộc sống buông thả nên cả hai bị cáo đều là những con nghiện ma túy. Bản án sơ phẩm tuyên phạt bị cáo D 04 năm tù, bị cáo M 02 năm 6 tháng tù là nhẹ, chưa nghiêm khắc, chưa tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra. Mặt khác, tại cấp phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo theo hướng tăng mức hình phạt. Vì vậy, xét kháng nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Lăk là có căn cứ, cần chấp nhận; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức D.
Căn cứ vào nội dung các phần nhận định [2.1] và [2.2], HĐXX chấp nhận toàn bộ nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân tỉnh Đắk Lắk. Đồng thời không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức D xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[3] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Đức D, Mai Trà M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức D;
Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 231/2019 ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về áp dụng pháp luật và mức hình phạt đối với các bị cáo.
[2] Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Đức D, bị cáo Mai Trà M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức D 7 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 17/4/2019).
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Mai Trà M 3 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 17/4/2019).
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Đức D, Mai Trà M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 315/2019/HS-PT ngày 24/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 315/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về