Bản án 314/2018/HS-ST ngày 23/11/2018 về tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 314/2018/HS-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 351/2018/TLST-HS ngày12 tháng 11 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 358/2018/ QĐXXST-HS ngày13 /11 /2018 đối với bị cáo:

BÙI VĂN N  – sinh năm: 1985; HKTT N – Ngọc Lặc – Thanh Hóa; Chỗ ở: Không cố định; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Mường; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; Tôn giáo: Không; con ông Bùi Văn H và bà Bùi Thị L; Vợ: Lê Thị T; Có 01 con sinh năm 2009; TATS: Theo danh chỉ bản số 457 ngày 06 - 8 - 2018 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 01 tiền án: Bản án số: 15/HSST ngày 26/01/2011 Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương xử 4 tháng 17 ngày tù.

Bị cáo bị bắt ngày 03 - 8 -2018. (Có mặt).

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Quang Đạo – Trợ giúp viên pháp lý viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Thành phố Hà Nội (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12h 30’ ngày 03/8/2018.Tổ công tác công an phường Sài Đồng, Long Biên, Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà  số 1 Vũ Xuân Thiều phường Sài Đồng - Long Biên - Hà Nội, phát hiện 01 thanh niên đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện trong lòng bàn tay phải nam thanh niên trên có 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chất bột màu trắng. Tại chỗ nam thanh niên khai tên là Bùi Văn N  - SN: 1985; HKTT: Đồng Thuận - Nguyệt Ấn - Ngọc Lặc - Thanh Hóa và gói giấy bạc là ma túy loại (Heroin) N  vừa mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong tang vật và đưa N  về trụ sở làm việc.

Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của N  01 điện thoại nhãn hiệu Viettel màu đỏ xanh đen đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số: 6473 ngày 09/8/2018 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại heroin, khối lượng : 0,122 gam.

Tại Cơ quan điều tra N   khai nhận. Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 11h 30 phút Ngày 03/8/2018 Bùi Văn N  lang thang ở khu vực Từ Sơn- Bắc Ninh để mua ma túy. Tại đây N  gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết 01 gói ma túy với giá 120.000đ. Sau khi mua được ma túy, N  để 01 gói ma túy trên vào trong lòng bàn tay phải và nam thanh niên trên đèo N  về đến phố Vũ Xuân Thiều, Long Biên, Hà Nội thì nam thanh niên đó bảo N  ngồi ở quán mước chờ để nam thanh niên đó đi có việc rồi quay về. N  ngồi đợi một lúc không thấy người thanh niên đó quay lại, N  đi bộ hướng ra đường Nguyễn Văn Linh. Khi đi đến trước cửa nhà số 01 Vũ Xuân Thiều - phường Sài Đồng - Long Biên - Hà Nội thì bị lực lượng công an kiểm bắt quả tang.

Đối với người bán ma túy  cho N  và chở N  đến phố Vũ Xuân Thiều, Long Biên, Hà Nội do N   khai  không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Vì vậy cơ quan điều tra chưa có điều kiện làm rõ. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Bản cáo trạng số:   352 /CT-VKS ngày 12 - 11   -2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Bùi Văn N  về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Bùi Văn N  đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS 2015.

Đề N  Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều38; Điều 47 của BLHS 2015 và Điều 106 của BLTTHS.

Về hình phạt: Đề N   xử phạt bị cáo N  mức án từ 18 đến 20 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Đề N tịch thu tiêu hủy 0, 122 gam Heroine.

- Đề N  cho thi hành trả lại bị cáo N  01 điện thoại di động Viettel màu đỏ xanh nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

Tại phiên tòa Luật sư  bào chữa cho bị cáo Bùi Văn N  phát biểu và đề N : Bị cáo N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, nhất trí với phần luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên, đề N  HĐXX xem xột cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất ,đề N không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề N  Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:  Khoảng 12h 30’ ngày 03/8/2018. Tại trước cửa nhà  số 1 Vũ Xuân Thiều - Long Biên - Hà Nội, bị cáo Bùi Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 0,122 gam  ma túy loại heroin, mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị  tổ công tác công an Phường Sài Đồng, quận Long Biên, Hà Nội phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo Bùi Văn N  đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:

Nhân thân của bị cáo có 01 tiền án: Bản án số: 15/HSST ngày 26/01/2011 Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương xử 4 tháng 17 ngày tù theo luật định tiền án này của bị cáo đã được xóa. Vì vậy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng vẫn được coi là có nhân thân xấu.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy, mại dâm ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo xét về tính chất, mức độ  và nhân thân bị cáo xấu thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 BLHS đối với bị cáo để thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[7] - Tịch thu, tiêu hủy 0,122 gam ma túy Heroine là vật nhà nước cấm lưu hành.

- Cho thi hành trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Viettel màu đỏ xanh đã qua sử dụng do không liên quan tới tội phạm nhưng cho tạm giữ lại chiếc điện thoại di động để đảm bảo công tác thi hành án.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề N  về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về vấn đề khác:

 [8] Đối với người bán ma túy  cho N  và chở N  đến phố Vũ Xuân Thiều, Long Biên, Hà Nội do N   khai  không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Vì vậy cơ quan điều tra chưa có điều kiện làm rõ. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

- Về án phí:

 [9] Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn N  phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:

Xử phạt: bị cáo Bùi Văn N   16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 03 - 8 -2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự  2015 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

-  Tịch thu tiêu hủy 0,122 gam ma túy loại Heroine (Hiện đang lưu giữ tại Kho  tang  vật  Công  an  quận  Long  Biên  theo  Phiếu  nhập  vật  chứng  ngày 14/9/2018).

- Cho thi hành trả lại bị cáo Bùi Văn N  01 điện thoại di động Viettel màu đỏ xanh đã qua sử dụng nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

(Hiện có tại chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/10/2018)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 314/2018/HS-ST ngày 23/11/2018 về tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:314/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về