TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 314 /2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 05 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 154/2018/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2018, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/10/2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu B, sinh năm 1958
Địa chỉ: SN 2, tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh T.
Có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1959
Địa chỉ: SN 2, tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh T.
Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có qua thời gian tìm hiểu, có đăng ký kết hôn vào tháng 12/1983 (theo ông B khai là ông bà đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Ỷ La, thị xã Tuyên Quang cũ, nay là UBND phường Ỷ La, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang) nhưng do thời gian đã lâu nên ông không nhớ chính xác là đăng ký tại UBND xã Ỷ La, thị xã Tuyên Quang hay là UBND phường Phan Thiết, thị xã Tuyên Quang cũ. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại xóm5, xã L, thị xã T (nay là tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh T). Thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường không có vấn đề gì, đến cuối năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống dẫn đến cuộc sống vợ chồng căng thẳng, nặng nề và thường xuyên xúc phạm nhau. Khi phát sinh mâu thuẫn vợ chồng cũng đã được hàng xóm và người thân trong gia đình hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Ông bà đã chính thức sống ly thân từ tháng 6/2015 đến nay không quan tâm gì đến nhau. Trong thời gian ly thân, ông B thường về sống ở quê tại thị trấn H, huyện T, tỉnh P còn bà M vẫn sinh sống tại nhà ông bà ở Tuyên Quang. Ông Nguyễn Hữu B xác định vợ chồng ông không còn tình cảm, mâu thuẫn không thể giải quyết được, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa, đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Thị M.
Quá trình giải quyết bà Nguyễn Thị M xác định bà và ông Nguyễn Hữu B được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 8/12/1983 tại UBND phường Phan Thiết, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Việc kết hôn của ông bà không được sự nhất trí của hai bên gia đình nên không tổ chức cưới theo phong tục địa phương mà chỉ có cơ quan hai bên đang công tác là Sở y tế và Sở công an đứng ra tổ chức cho ông bà. Theo bà M, vợ chồng bà không có mâu thuẫn gì lớn trong quá trình chung sống, chỉ đến khi ông B có quyết định nghỉ hưu vào năm 2015 thì ông B tuyên bố có bạn gái và bỏ nhà đi từ đó đến nay. Nay ông B xin ly hôn bà không nhất trí vì các con và vì bà vẫn còn yêu chồng, đề nghị Toà án xem xét giải quyết để gia đình bà được đoàn tụ. Về tài sản chung, do không nhất trí ly hôn với ông B nên bà M không đề cập đến phần chia tài sản. Bà M xác định bà và ông B không có vay nợ chung nên không đề nghị Toà án giải quyết.
Về con chung: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M có 02 con chung là Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 29/9/1984 và Nguyễn Diệu L, sinh ngày 10/6/1990 hiện tại đều đã trưởng thành. Quá trình giải quyết, ông B và bà M không đề nghị gì về con chung.
Về tài sản chung: Ông Nguyễn Hữu B xác định vợ chồng có tài sản chung là nhà và quyền sử dụng đất tại SN 2, tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh T nhưng xin tự thoả thuận phân chia, không đề nghị Toà án giải quyết. Ý kiến của bà M: do không nhất trí ly hôn với ông B nên bà không đề cập đến phần chia tài sản.
Về vay nợ chung: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M cùng xác định không có vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình thụ lý, giải quyết Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang đã nhiều lần thông báo tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng chỉ ông Nguyễn Hữu B có mặt còn bà Nguyễn Thị M đều vắng mặt không có lý do nên không tiến hành được các buổi làm việc với các đương sự.
* Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh T. Có nghe ông thấy B nói về việc vợ chồng ông bà mặc dù vẫn sinh sống cùng nhà nhưng đã sống ly thân. Trước đây ông B làm việc tại cơ quan C tỉnh Tuyên Quang, bà M trước kia cũng có đi làm nhà nước nhưng sau nghỉ việc ở nhà kinh doanh. Thời gian ông B còn đang công tác, ông bà B - M hay xô xát, cãi vã do bất đồng quan điểm sống, nhiều lần thấy ông B bức xúc và nói sẽ ly hôn với bà M vì bà M hay chửi chồng con, viết đơn từ, kiện cáo làm ảnh hưởng đến công việc của ông. Từ 2 - 3 năm trở lại đây ông B nghỉ hưu và thường xuyên vắng nhà, nghe nói là về quê ở tỉnh Phú Thọ sinh sống (địa chỉ cụ thể chính quyền tổ không nắm rõ vì ông B không báo tạm vắng), hàng tháng ông B về nhà vào đợt họp chi bộ tổ. Vài tháng trở lại đây bà M cũng thường xuyên đi chăm sóc con cháu tại Hà Nội không có mặt tại nhà. Ông bà B – M có 02 con chung, hiện đều đã xây dựng gia đình riêng nhưng chính quyền tổ không nắm được nơi sinh sống cụ thể. Về tài sản chung: ông bà B – M có tài sản chung là nhà và quyền sử dụng đất tại tổ 4, phường T, thành phố T tỉnh T, được biết đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Không thấy ông bà B – M có hiện tượng vay nợ gì.
Tại phiên toà: Ông Nguyễn Hữu B vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị M và giữ nguyên ý kiến đã trình bầy về con chung, tài sản chung, vay nợ chung như trong quá trình đã Toà án thụ lý, giải quyết.
Bà Nguyễn Thị M không nhất trí ly hôn với ông B vì không muốn con cái phải xấu hổ và muốn giữ thể diện với gia đình thông gia của ông bà. Về mâu thuẫn vợ chồng, bà M xác định: Mâu thuẫn chủ yếu là do ông B có quan hệ ngoài luồng, cụ thể là đã có bồ bịch từ khi con đầu lòng của ông bà mới được hai tuổi, với thời gian liên tục hết người này đến người khác. Ngoài ra, ông B không có bất cứ trách nhiệm gì với vợ con, không đưa cho bà đồng tiền nào để nuôi con cái ăn học để bà phải một mình gách vác toàn bộ cuộc sống gia đình. Từ khi nghỉ hưu đến nay, ông B đi đâu, làm gì bà không biết. Tuy nhiên mặc dù như vậy bà vẫn xác định bỏ qua tất cả và không ly hôn với ông B, bà có thể chấp nhận cuộc sống ly thân như hiện tại vì đó cũng là ý nguyện của gia đình họ hàng bên chồng và 02 con chung của ông bà.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng dân sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Riêng phía bị đơn chấp hành chưa nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M cùng xác định có tự nguyện đăng ký kết hôn theo quy định vào tháng 12/1983 nhưng do thời gian đã lâu nên hiện đã bị mất giấy đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, hiện đã sống ly thân. Ông B đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với bà M nhưng bà M không đồng ý. Xác định có căn cứ cho thấy tình cảm vợ chồng của ông B và bà M đã không còn gắn bó, mâu thuẫn kéo dài nhiều năm không cải thiện được. Căn cứ Điều 56 Luật HN&GĐ, đề nghị Hội đồng xét xử xử theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của ông Nguyễn Hữu B. Về con chung, tài sản chung và vay nợ chung: Đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết do các đương sự không yêu cầu. Ông B phải chịu án phí; các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ (gửi bảo đảm qua đường bưu điện và niêm yết theo quy định) các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn theo đúng quy định pháp luật.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M kết hôn trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn đúng quy định pháp luật, như vậy quan hệ hôn nhân của ông B và bà M là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày dẫn đến sống ly thân, ông B đã đi ở nơi khác không quan tâm gì đến bà M từ năm 2015 đến nay. Ngày02/5/2018, ông B có đơn yêu cầu ly hôn với bà M. Quá trình Toà án giải quyết, bà M không nhất trí ly hôn với ông B nhưng không có mặt đủ tại các buổi làm việc và hoà giải do Toà án tiến hành. Tại phiên toà bà M vẫn giữ nguyên ý kiến về việc không đồng ý ly hôn với ông B, tuy nhiên bà cũng xác định bà và ông B ly thân đã lâu, ông B không quan tâm hoặc liên lạc gì với bà, thời gian ly thân ông B ở đâu, làm gì bà không biết chính xác, bà cũng không có cách gì để ông B trở về chung sống với bà. Tuy nhiên bà vẫn còn yêu chồng, mong muốn vợ chồng đoàn tụ, đề nghị Toà án xem xét giải quyết.
Qua việc điều tra, xác minh thể hiện cuộc sống chung của ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M có nhiều mâu thuẫn dẫn đến hiện đang sống ly thân, không còn sự quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có cơ sở cho thấy hôn nhân của ông B và bà M đã lâm vào tình trạng thực sự trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ chung sống. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận xử cho ông Nguyễn Hữu B được ly hôn với bà Nguyễn Thị M.
[3] Về con chung: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M có 02 con chung là Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 29/9/1984 và Nguyễn Diệu L, sinh ngày 10/6/1990. Xét thấy con chung của ông bà hiện đã trưởng thành, không ai có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Quá trình giải quyết, ông Nguyễn Hữu B khai ông và bà M có tài sản chung là nhà và quyền sử dụng đất tại SN 2, tổ 4, phường T, thành phố T, tỉnh T nhưng xin tự thoả thuận phân chia, không đề nghị Toà án giải quyết. Bà M không đề cập đến phần chia tài sản do bà không nhất trí ly hôn với ông B.
Tại phiên toà sơ thẩm, bà M đề nghị được tự thoả thuận về tài sản chung vợ chồng với ông B. Nếu sau này không thể thoả thuận, thống nhất được thì bà sẽ có đơn yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản sau ly hôn, không đề nghị Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
[5] Về vay nợ chung: Các đương sự xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Ông Nguyễn Hữu B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; bà Nguyễn Thị M không phải chịu án phí.
[7] Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 28, 35, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ông Nguyễn Hữu B được ly hôn bà Nguyễn Thị M.
2. Về án phí: Ông Nguyễn Hữu B phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0005244 ngày 15/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang. Ông Nguyễn Hữu B đã nộp đủ án phí của vụ án.
Bà Nguyễn Thị M không phải nộp án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Hữu B và bà Nguyễn Thị M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 314/2018/HNGĐ-ST ngày 05/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 314/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về