Bản án 313/2019/HS-PT ngày 28/10/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 313/2019/HS-PT NGÀY 28/10/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 330/2019/TLPT-HS ngày 24/9/2019 đối với bị cáo Trần Văn D về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2019/HS-ST ngày 16/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1366/2019/QĐXXPT-HS ngày 15/10/2019.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Văn D, sinh ngày 05/5/1975 tại Hà Nội; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Số 49, Đường HB, tổ 50, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quý T (Chết) và bà Trần Thị N (sống); có vợ là Đào Thị K (đã chết); có 2 con: Con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 26/02/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn D: Ông Nguyễn Huy V1, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

- Người bị hại: Bà Đào Thị K, sinh năm 1977; trú tại: Số 49, Đường HB, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng. (Đã chết).

Đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Đào Văn Nh, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị Q1, sinh năm 1948. Cùng trú tại: Thôn Y, xã TT, huyện M, thành phố Hà Nội;

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nh và bà Q1:

1. Anh Trần Duy Q, sinh năm 1996; địa chỉ: Số 49, Đường HB, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

2. Anh Đào Xuân H, sinh năm 1988; ĐKHKTT: Thôn Y, xã TT, huyện M, thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Hồng Q2, sinh năm 1972; trú tại: tổ 80, phường H1, quận H2, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tắt nội dung án sơ thẩm như sau:

Trần Văn D phát hiện vợ mình là chị Đào Thị K có quan hệ tình cảm với Phùng Trương V (lái xe múc của Công ty DK do Trần Văn D làm giám đốc) nên giữa hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Bị cáo cùng con trai là Trần Duy Q đem tài sản là tiền, vàng nữ trang (lâu nay chị K đang cất giữ) đi cất giữ ở chỗ khác. Chị K yêu cầu bị cáo phải giao lại cho chị K nếu không sẽ đi tự tử hoặc báo công an. Bực tức việc này, khoảng 14 giờ ngày 19/02/2019 D đến siêu thị M1, đường C2 mua một con dao dài khoảng 35cm có lưỡi bằng kim loại cán bằng gỗ mang về nhà đe dọa chị K nhưng được các anh Nguyễn Văn H3, Ngô Đức C2 là hàng xóm can ngăn. Sau đó D nói chuyện với chị K về việc cho V nghỉ việc, giao lại Công ty DK cho con trai ruột là Trần Duy Q quản lý nhưng chị K không đồng ý mà cho rằng vì V làm lái xe nhận lương ít hơn người khác và V còn nợ tiền của chị K 495.000.000 đồng mà chưa viết giấy mượn tiền nên để V làm việc trả nợ. Đồng thời, chị K không muốn giao lại việc quản lý tài sản, quản lý Công ty DK và quản lý tài sản gia đình cho con trai Trần Duy Q. Nghe vậy, D không đồng ý và bỏ đi ra ngoài. Đến khoảng 16 giờ ngày 25/02/2019, D cùng con trai là Trần Duy Q đi và gặp V yêu cầu V trả nợ, do trước đó V đã trả cho vợ chồng D số tiền 95.000.000 đồng nợ lại 400.000.00 đồng nên V viết giấy nợ giao cho D. Đến khoảng 20 giờ ngày 25/02/2019 sau khi ăn cơm D đi lên phòng nói chuyện với chị K và 2 người cãi nhau về chuyện chị K có quan hệ tình cảm với V. Sau đó D đi ra đầu đường Đường HB gọi điện thoại cho anh ruột là Trần Hồng Q2 đến chở đi nói chuyện, trong lúc điện thoại D nhìn thấy chị K điều khiển xe máy đi ra khỏi nhà nên D gọi điện thoại nói chị K quay về để nói chuyện. Một lúc sau, chị K quay về lên phòng ngủ của 2 vợ chồng. Tại đây D và chị K tiếp tục cãi nhau vì D nghi ngờ chị K vẫn còn liên lạc với V, D chạy ra ngoài phòng khách đến tủ đựng tài liệu, hồ sơ của Công ty lấy dao mà D đã mua vào ngày 19/02/2019. Khi thấy D cầm con dao chạy xông vào phòng ngủ thì chị K bước lùi lại tựa lưng vào tủ đựng áo quần bằng nhựa và van xin D tha lỗi, nhưng D vẫn cầm dao bằng tay phải, mũi dao hướng về phía trước tư thế đối diện chị K và nói: “Bây giờ mày muốn gì?” đồng thời đâm 1 nhát từ sau ra trước và từ dưới lên trên trúng vào vùng bụng bên trái của chị K. sau khi bị đâm chị K dùng hai tay ôm vào vết thương và khóc nên D vứt con dao lên đầu giường ngủ trong phòng và gọi hai người con là Trần Duy Q và Trần Thị Ng1 đang ở tầng trên xuống cùng với D đưa chị K ra xe đi cấp cứu tại Bệnh viện T2, thành phố Đà Nẵng, sau đó chuyển đến bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng cấp cứu. Sau khi đưa chị K vào bệnh viện vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 25/02/2019, D đến công an phường K, quận C tự thú về hành vi phạm tội của mình. Đến khoảng 03 giờ 10 phút ngày 26-2-2019 chị K chết.

Tại bản kết luận Giám định pháp y về tử thi số 31/GĐ-PY ngày 28-2-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết quả giám định:

1. Khám ngoài:

Vùng hố chậu phải, cách gai chậu trước trên bên phải 7cm, cách rốn 7 cm, có vết đứt da cơ đã khâu chỉ, dài 1 cm. Kí kiệu: “VI”.

Vùng hố chậu trái, cách gai chậu trước bên trái 4,5cm, cách rốn l0cm, có vết đứt da cơ đã khâu chỉ, dài 01cm. Kí hiệu: “V2”.

Vùng bụng tương ứng với đường trắng giữa chạy từ rốn lên vùng thượng vị dọc theo hạ sườn qua phía bên trái có vết rách đứt da cơ đã khâu chỉ, hình chữ V, bề lõm quay xuống dưới, dài 28 cm. Kí hiệu: “V3”.

2. Khám trong: Tiến hành giải phẫu tử thi, kiểm tra thấy:

Kiểm tra vết thương V3 tại vị trí cách đường giữa l0cm, cách trên gai chậu trước trên bên trái 12 cm, có vết đứt da cơ đã khâu chỉ, miệng vết thương dài 4 cm, rãnh vết thương sâu 12cm, có hướng từ trước ra sau, từ phải qua trái gây đứt mạc treo, thủng đại tràng, đứt lách, đứt thận.

Trong ổ bụng có 300 ml máu.

Kết luận giám định: Nguyên nhân chết của chị Đào Thị K là mất máu, trụy tim mạch do vết thương vùng bụng trái gây đứt mạc treo, thủng đại tràng, đứt lách, đứt thận.

Tại bản Kết luận giám định số: 433/GĐ-PY ngày 14-5-2019 của Phân viên kỹ thuật hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Trên con dao mà cơ quan điều tra Công an quận C đã thu giữ tại hiện trường có dính máu của Đào Thị K.

Tang vật thu giữ;

- 01 con dao cán gỗ, lưỡi bằng kim loại.

- 01 hộp nhựa trong suốt có in hình con dao và dòng chữ CHEF KNIFE, hiệu DELAWARE.

- 01 chiếc áo sơ mi.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2019/HS-ST ngày 16/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội “Giết người”.

Căn cứ: Điểm q khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;  khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt: Trần Văn D 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 26-2-2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 26-8-2019, bị cáo Trần Văn D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 30-8-2019, đại diện theo ủy quyền của ông Đào Văn Nh và bà Nguyễn Thị Q1 (ông Nh, bà Q1 là đại diện hợp pháp của người bị hại Đào Thị K) là anh Trần Duy Q và anh Đào Xuân H kháng cáo cho rằng bị cáo D không phạm tội vì động cơ đê hèn, mà chỉ phạm tội theo khoản 2 Điều 123 BLHS và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn D đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội thuộc trường hợp vì động cơ đê hèn mà phạm tội theo khoản 2 Điều 123 BLHS; anh Trần Duy Q, anh Đào Xuân H đề nghị sửa bản án sơ thẩm,  giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Văn D.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn D và kháng cáo của anh Trần Duy Q và anh Đào Xuân H - sửa Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ trước cho đến nay như cấp sơ thẩm nhận định là đúng.

[2] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Trần Văn D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời thừa nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, kết quả khám nghiệm và tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, cụ thể: Chỉ vì quá bức xúc, không kiềm chế được bản thân khi nghĩ người bị hại Đào Thị K còn quan hệ tình cảm với anh Phùng Trương V; đồng thời chị Đào Thị K không đồng ý giao lại quyền quản lý tài sản cho con trai Trần Duy Q mà bị cáo đã sử dụng con dao Thái Lan đâm một nhát vào vùng bụng của chị K. Hậu quả làm chị Đào Thị K bị thương nặng dẫn đến tử vong. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến khách thể đặc biệt quan trọng là tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ; gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương; gây hoang mang lo lắng trong nhân dân. Bị cáo Trần Văn D nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng cố tình phạm tội. Do đó, cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo Trần Văn D về tội “Giết người” theo quy định tại điểm q khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng tước đi quyền được sống của người khác là quyền bất khả xâm phạm. Nguyên nhân chính xuất phát từ mâu thuẫn trong gia đình khi nghi ngờ chị K ngoại tình trước đó và tiếp tục ngoại tình; đồng thời việc chị K không đồng ý giao lại quyền quản lý tài sản, quản lý công ty cho con trai Trần Duy Q dẫn đến tranh cãi giữa bị cáo Trần Văn D và chị Đào Thị K thể hiện hành vi phạm tội vì động cơ đê hèn như cấp sơ thẩm nhận định là đúng. Tuy nhiên, Luật sư bào chữa cho rằng hành vi phạm tội của bị cáo không vì động cơ đê hèn mà chỉ phạm tội theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là không chính xác.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đó là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại cho người đại diện người bị hại; người bị hại cũng có một phần lỗi; sau khi phạm tội bị cáo đã cùng gia đình đưa bị hại ra xe đi cấp cứu tại bệnh viện; cha bị cáo là thương binh có Huân chương kháng chiến. Mặc dù cấp sơ thẩm nhận định bị cáo sau khi phạm tội đã ra tự thú nhưng lại không áp dụng điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là thiếu sót nên cần thiết áp dụng để bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước. Hơn nữa, tại cấp phúc thẩm bị cáo tiếp tục tác động gia đình nộp số tiền 50.000.000 đồng thể hiện thực sự ăn năn, hối cải về hành vi trái pháp luật của mình và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Hồng Q2 đã nhận đủ số tiền này. Đặc biệt, người đại diện theo ủy quyền của người đại diện hợp pháp cho người bị hại là các anh Trần Duy Q và Đào Xuân H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Như vậy, bị cáo có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn D mức án dưới khung hình phạt là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét thấy có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo; người đại diện theo ủy quyền của người đại diện hợp pháp cho người bị hại; chấp nhận quan điểm của luật sư, đại diện Viện kiểm sát. Sửa Bản án sơ thẩm.

[6] Về án phí: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Văn D được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Trần Văn D, người đại diện theo ủy quyền của người đại diện hợp pháp cho người bị hại anh Trần Duy Q và anh Đào Xuân H. Sửa bản án sơ thẩm hình sự số 47/2019/HS-ST ngày 16/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Áp dụng điểm q khoản 1 Điều 123; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt: Trần Văn D 07 (Bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 26/2/2019.

2. Về án phí phúc thẩm:

Căn cứ Điều 135, Điều 136; Điều 342 và Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 21, điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 28-10-2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

541
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 313/2019/HS-PT ngày 28/10/2019 về tội giết người

Số hiệu:313/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về