TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 312/2020/HS-PT NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 268/2020/TLPT-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo Cao Thành N và các đồng phạm. Do có kháng cáo của các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P và Nguyễn Hoàng N1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Cao Thành N (tên gọi khác: NC); Sinh năm 1997; Tại tỉnh Đồng Tháp; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Khóm X, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Con ông Cao Văn C, sinh năm 1957 và bà Lương Thị P, sinh năm 1957; Tiền án: Ngày 25/9/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Tam Nông xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự Không; Nhân thân: Ngày 14/9/2012, UBND huyện Tam Nông quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng do có hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 28/11/2014, Tòa án nhân dân huyện Tam Nông xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị bắt tạm giữ ngày 04/01/2020, tạm giam ngày 10/01/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, có mặt.
2. Trịnh Kim P (tên gọi khác: PN); Sinh năm 1993; Tại tỉnh Đồng Tháp; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Ấp B, xã B, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 06/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trịnh Văn H, sinh năm 1970 và bà Lê Thị N2, sinh năm 1969, có vợ là Võ Thị Kim N3, sinh năm 1997 và 01 con; Tiền án: Ngày 28/02/2020, Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Ngày 09/7/2019, Công An xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Nhân thân: Ngày 03/02/2017, Tòa án nhân dân thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện; Bị bắt tạm giam ngày 18/6/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, có mặt.
3. Nguyễn Hoàng N1 (tên gọi khác: N); Sinh năm 1993; Tại tỉnh Đồng Tháp; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Ấp X, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 07/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Hoàng N4, sinh năm 1948 (chết) và bà Nguyễn Thị, sinh năm 1949; có vợ là Trần Nhã Y, sinh năm 1997 và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 07/02/2007, UBND huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; Ngày 23/12/2011 và 22/3/2012, Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình xử phạt và tổng hợp hình phạt 02 bản án là 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tạm giữ, tạm giam: Không. Hiện bị cáo đang tại ngoại, có mặt.
Trong vụ án còn có người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có nghề nghiệp và tiền tiêu xài cá nhân, từ tháng 6/2019 đến ngày 02/01/2020, Cao Thành N, Lê Thiện Y1, Nguyễn Văn Y2 đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện T, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Vào buổi tối tháng 06/2019 (không nhớ ngày), Cao Thành N rủ Lê Thiện Y1 (sinh ngày 20/3/2004) đi trộm tài sản. Do không có phương tiện nên N mượn xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu xanh (không nhớ biển số) của Dương Thanh H chở Y1 đến ấp P, xã P, huyện T lấy trộm được 01 xe mô tô biển số 62P1- 635.79 của Lê Văn H1 đang đậu ngoài lề đường, rồi chạy xe ra xã A, trên đường đi N gọi điện thoại cho Trịnh Kim P nhờ tìm người bán xe. Phát kêu N và Y1 chạy đến nhà Nguyễn Văn C1 tại xã A. Đến sáng hôm sau, Y1 và N bán xe mô tô lấy trộm cho Lê Vũ B tại xã A, huyện T.
- Theo kết luận định giá tài sản: xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại Wave α, màu sơn xanh-đen-bạc, biển số 62P1-635.79, số khung: 1253FY111807, số máy: HC12E7111942, tài sản đã qua sử dụng, giá trị định giá 10.000.000 đồng.
- Đối với Lê Thiện Y1, sinh ngày 20/3/2004, tham gia cùng N trộm cắp tài sản nhưng do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan điều tra đã lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng.
- Do Lê Vũ B không có mặt tại địa phương, nên không thu hồi xe được.
- Đối với xe mô tô Sirius của Dương Thanh H cho Cao Thành N mượn đi trộm, hiện nay H không có mặt ở địa phương, cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.
- Tại phiên tòa, ông Lê Văn H1 chỉ yêu cầu 01 mình bị cáo N bồi thường số tiền 10.000.000 đồng và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo N.
Vụ thứ hai: Vào buổi tối tháng 7/2019 (không nhớ ngày), Nguyễn Hoài N5 và Lê Thiện Y1 rủ nhau đi trộm nhưng không có phương tiện nên gọi điện cho N, sau đó N tự lấy xe mô tô nhãn hiệu MAX (không nhớ biển số xe) của T và 50.000 đồng đưa cho N5 và Y1 đổ xăng đi trộm. N5 và Y chạy xe đến xã P lấy trộm được 01 xe mô tô biển số 66P1-630.22 của Đặng Thanh C2 đang dựng trước nhà rồi mang về nhà Y1 cất giấu. Sáng hôm sau, N đến nhà Y1 lấy xe chạy ra xã A bán cho Trịnh Kim P được 1.000.000 đồng.
- Căn cứ kết luận định giá tài sản: xe mô tô 66P1-630.22, có giá trị định giá 3.300.000 đồng.
- Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Kim P khai: do Cao Thành N gọi điện nhờ P bán dùm xe Dream Khi N đem xe đến ngã 3 An L, thì P hỏi bán xe bao nhiêu, N nói nếu P mua thì bán 1.000.000 đồng, P biết xe N bán là do trộm mà có nhưng vẫn mua. Đến trưa ngày 18/12/2019, P kêu Giang chạy xe 66P1- 630.22 đi mua đồ về ăn cơm tại nhà của Nguyễn Văn H2 (tự P). Trong lúc Giang đi mua đồ ăn thì Công an huyện Hồng Ngự đến bắt giữ P và khởi tố tạm giam về tội trộm cắp tài sản, hiện nay P không biết xe mô tô ở đâu và cơ quan điều tra chưa thu hồi được xe trên.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhung ông Đặng Thanh C2 có lời khai chỉ yêu cầu 01 mình bị cáo N bồi thường số tiền 4.000.000 đồng.
- Đối với Lê Thiện Y1, sinh ngày 20/3/2004, tham gia cùng N trộm cắp tài sản nhưng do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan điều tra đã lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng.
- Còn Nguyễn Hoài N5, hiện không có mặt tại địa phương, cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau.
Vụ thứ ba: Vào ngày 16/12/2019, Cao Thành N rủ Nguyễn Văn Y2, điều khiển xe mô tô hiệu Max của Y2 (không rõ biển số) đi tìm tài sản trộm. Khi đi đến vườn mai của Dương Văn Kiệt E tại khóm X, thị trấn T trộm được 01 cây mai kiểng rồi mang bán cho Lê Văn C3 với giá 400.000 đồng.
Sau khi mua cây mai thì C3 bán lại cho Phan Thị M tại xã A, huyện T với giá 1.500.000 đồng. Do bà M bị bệnh nhập viện nên Đinh Minh T1 (con một của M) tự nguyện giao nộp cây mai kiểng cho cơ quan điều tra và không yêu cầu trả lại số tiền mua mai kiểng.
- Theo kết luận định giá tài sản: 01 cây mai kiểng, chu vi thân 18cm, chiều cao thân 75cm, trị giá 3.500.000 đồng.
- Đối với Nguyễn Văn Y2, sinh ngày 16/12/2006, tham gia cùng N trộm cắp tài sản nhung do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan điều tra đã lập hồ sơ giao cho gia đình và địa phương giáo dục.
- Lê Văn C3, hiện không có mặt tại địa phương, cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau.
- Đối với xe mô tô hiệu MAX mà Y2 và N dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, hiện đã bán cho người khác, chưa thu hồi được. Bà Nguyễn Thị H3 (mẹ của Y2) cho là xe đã cũ, nên không có yêu cầu trách nhiệm dân sự gì.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng ông Dương Văn Kiệt E có lời khai không yêu cầu bồi thường, do đã nhận lại được tài sản (01 cây mai kiểng).
Vụ thứ tư và thứ năm: Cách vụ thứ ba 03 ngày, vào buổi tối ngày 19/12/2019, Cao Thành N đi bộ đến chợ gà thuộc khóm X, thị trấn T trộm 01 xe mô tô biển số 66N6-1094 đang dựng trên vỉa hè, rồi chạy đến vườn mai của Dương Văn Kiệt E tại khóm X, thị trấn T trộm tiếp 01 cây mai kiểng rồi mang cây mai kiểng bán cho Lê Văn C3 ở ấp X, xã An P, huyện T giá 800.000 đồng. Sau đó, C3 bán cây mai kiểng cho Huỳnh Lê T2 tại xã An P, huyện T với giá 800.000 đồng. Còn xe mô tô biển số 66N6-1094, thì N bán cho Trương Lộc T3 với giá 300.000 đồng.
- Theo kết luận định giá tài sản: 01 cây mai kiểng, chu vi thân 50cm, chiều cao thân 75cm, giá trị định giá 8.700.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu HELLO@, loại C110, màu sơn đỏ - đen, biển số 66N6-1094, trị giá 600.000 đồng.
- Các tài sản trên, Huỳnh Lê T2, Trương Lộc T3 đã giao nộp lại tài sản và không yêu cầu trả lại tiền. Khi mua bán T2 và T3 không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự.
Đối với xe mô tô, biển số 66N6-1094, hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu.
- Lê Văn C3, hiện không có mặt tại địa phương, cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng ông Dương Văn Kiệt E có lời khai không yêu cầu bồi thường, do đã nhận lại được tài sản (01 cây mai kiểng).
Vụ thứ sáu: Buổi tối ngày 24/12/2019, Cao Thành N nhờ bạn tên Lê Văn H3 nhà ở khóm X, Thị trấn T điều khiển xe mô tô biển số 66N1-142.10 chở ra Thanh Bình, khi qua ngã 3 Tam Nông thì Nhân xuống xe và kêu H3 đi về. N một mình đi bộ hướng ra huyện Thanh Bình để tìm tài sản trộm. Khi đến khóm X, thị trấn T trộm được 01 xe mô tô biển số 66L5 - 6028 của Nguyễn Thị B1 đang dựng trước cửa nhà, rồi chạy đến xã T, huyện T bán cho P1 với giá 800.000 đồng.
- Theo kết luận định giá tài sản: 01 xe mô tô, nhãn hiệu STRARBLUE, loại wave, màu sơn xanh-đen-bạc, biển số 66L5-6028, trị giá 3.000.000 đồng.
- Đối với P1 (không rõ họ, năm sinh và địa chỉ cụ thể) cơ quan điều tra chưa làm việc được, không thu hồi được xe, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.
Lê Văn H3 chở Nhân đến khóm X, thị trấn T không biết Nhân đi trộm cắp tài sản nên không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng bà Nguyễn Thị B1 có lời khai yêu cầu bồi thường số tiền 3.000.000 đồng.
Vụ thứ bảy: Khoảng 00 giờ ngày 27/12/2019, Cao Thành N mượn xe mô tô biển số 66N1-142.10 của Lê Văn H3 chạy đến xã B, huyện T, rồi cùng Nguyễn Thanh Đ đến khóm X, thị trấn T trộm 01 cây mai kiểng của Lư Quan B2, đem bán cho Lê Văn C3 ở ấp X, xã A, huyện T với giá 300.000 đồng. C3 đem cây mai kiểng bán lại cho Võ Thị N6 với giá 500.000 đồng.
- Theo kết luận định giá tài sản: cây mai kiểng, chu vi thân 24cm, chiều cao thân 95cm, giá trị định giá trị giá 4.000.000 đồng.
- Nguyễn Thanh Đ, Lê Văn C3, hiện không có mặt tại địa phương, cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau
- Võ Thị N6 đã giao nộp lại tài sản và không yêu cầu trả lại tiền. Khi mua bán, bà N6 không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự.
- Lê Văn H3 cho N mượn xe mô tô, không biết đi trộm cắp tài sản nên không xem xét, xử lý. Riêng xe là thuộc quyền sở hữu của bà Huỳnh Thị L, nên sau khi thu giữ thì Cơ quan điều tra đã trao trả xe cho bà L và bà L cùng không có yêu cầu bồi thường.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng ông Lư Quan B2 có lời khai không yêu cầu bồi thường, do đã nhận lại được tài sản (01 cây mai kiểng).
Vụ thứ tám: Khoảng 14 giờ ngày 28/12/2019, Cao Thành N mượn xe mô tô biển số 66N1-142.10 của Lê Văn H3 chạy đến nhà của Nguyễn Văn K ở khóm X, thị trấn T để tìm Nguyễn Thị C4 (con của ông K) chơi. Đến nơi, thấy nhà đóng cửa, nên N mở cửa sau vào nhà lấy trộm được 01 bình ắc quy, bán cho Đào Văn K1 với giá 450.000 đồng.
- Theo kết luận định giá tài sản: 01 bình ắc quy, hiệu Dongnai, công suất 12V-120Ah, có thân màu trắng, nắp trên màu đen, trị giá 2.500.000 đồng.
- Lê Văn H3 cho N mượn xe mô tô, không biết đi trộm cắp tài sản nên không xem xét, xử lý.
- Đào Văn K1 đã giao nộp lại tài sản và không yêu cầu trả lại tiền. Khi mua bán, ông K1 không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng ông Nguyễn Văn K có lời khai không yêu cầu bồi thường, do đã nhận lại được tài sản.
Vụ thứ chín: Khoảng 02 giờ ngày 28/12/2019, Cao Thành N và Nguyễn Văn Y2 chạy xe mô tô hiệu MAX của Y2 (không nhớ biển số) đến nhà của Nguyễn Văn K ở khóm X, thị trấn T lấy trộm được các chìa khóa và dụng cụ sửa chữa đã cũ. Sau đó, N và Y2 đi qua nhà của Võ Thái H4, cách đó khoảng 10 mét, lấy trộm được 01 xe mô tô biển số 66P1- 905.35 rồi mang xe cất giấu cặp vách nhà của Lê Hoàng V ở khóm X, Thị trấn T. Sau đó, N và Y2 tiếp tục quay lại nhà Võ Thái H4 tính lấy trộm thêm tài sản, thì bị H4 bắt được và giao Công an thị trấn T xử lý. Tại trụ sở Công an thị trấn T, N mở cửa sổ chui ra ngoài lấy xe MAX của Y2 bỏ trốn, chạy đến nhà của Nguyễn Văn T4 tại xã P, huyện H gửi xe, rồi nhờ Nguyễn Chí B3 chạy xe biển số 66B1- 557.78 chở N đến xã A, huyện T. Khi đến bến đò xã A, N mượn xe của B3 nói đi cầm vàng rồi chạy đi luôn, không trả lại cho B3. Đến ngày 03/01/2020, Công an huyện Tam Nông bắt được N3 tại nhà trọ Thắng Gương, thuộc khóm X, thị trấn T, huyện T và tạm giữ xe mô tô biển số 66B1-557.78 cùng 01 túi ny lon chứa ma túy đá, 01 bình nhựa sử dụng ma túy đá, 01 cân tiểu ly,01 bóp da, tiền Việt Nam 1.200.000 đồng và 01 điện thoại di động.
- Theo kết luận định giá tài sản: 01 xe mô tô, nhãn hiệu DAYANG, loại xe Honda Dream, màu sơn nâu, biển số 66P1- 905.35, trị giá 3.000.000 đồng; 03 cây kiềm, 03 cờ lê, 02 cây điếu, 01 cây kéo, 01 cái túi vải, tất cả trị giá 5.000 đồng.
- Đối với Nguyễn Văn Y2, sinh ngày 16/12/2006, tham gia cùng N trộm cắp tài sản nhưng do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan điều tra đã lập hồ sơ giao cho gia đình và địa phương giáo dục.
- Đối với xe mô tô hiệu MAX mà Y2 và N dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, hiện đã bán cho người khác, chưa thu hồi được.
- Xe mô tô biển số 66B1- 557.78 mà N mượn của Nguyễn Chí B3 là thuộc quyền sở hữu của Nguyễn Thành T (cha của B3). Lúc N hỏi mượn xe đi cầm nhẫn vàng thì B3 đồng ý, xét thấy đây là quan hệ vay mượn nên không xem xét truy cứu trách nhiệm hành vi mượn xe của N, đồng thời trao trả lại xe và ông T4 cũng không yêu cầu gì.
- Tiền Việt Nam 1.200.000 đồng là của chị N tên Cao Thị Thanh T5 cho N, điện thoại di động và bóp da là của cá nhân N không phải tiền bán tài sản trộm có được nên cơ quan điều tra đã trao trả lại cho N.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng các ông Võ Thái H4, Nguyễn Văn K có lời khai không yêu cầu bồi thường, do đã nhận lại được tài sản.
- Kết luận giám định số 45/KL-KTHS ngày 14/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: tinh thể rắn chứa trong 01 túi nylon màu trắng hàn kín, được niêm phong trong phong bì màu trắng ghi ký hiệu N1 nêu trên gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,081 gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 323 thuộc Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).
Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Cao Thành N, do không đủ định lượng nên Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính đối với N.
Vụ thứ mười: Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, Cao Thành N chạy xe mô tô 66B1-557.78 đến nhà bạn tại chợ ấp P, xã P chơi thì nhìn thấy xe mô tô 66K8-8178 của Lê Thanh L1 dựng trước cửa kho không người trông giữ, trên xe gắn chìa khóa, nên N chạy xe đến chốt bảo vệ rừng tìm bạn tên T6 thì gặp Nguyễn Thành T7, Bùi Thành T8 (tự P), T6 và H5. N nhờ T8 chở N đến chợ P, lúc này T8 kêu T7 cùng đi. Lúc đi T7 điều khiển xe chở T8 chạy trước, N điều khiển xe đi sau, khi đến chợ xã P, do N không thấy T7 và T8, nên N đem xe mô tô để trước nhà của em của PN (PN là bạn của N), rồi N đi lại lấy xe mô tô của L1, chạy ra xã A thì gặp T7 và T8, N kêu bán xe vừa trộm thì T7 và T8 không mua, nên N chạy xe đến nhà H6 (HL) ở xã A ngồi chơi. Đến khoảng 04 giờ sáng, N đến cụm dân cư xã A nhờ Trần Văn Lý E1 (Đ) lấy xe chở N vào nhà PN để lấy xe. Sau khi lấy xe, N chở Nguyễn Văn Y2 đến nhà H6 lấy xe trộm, rồi cả hai chạy đến nhà Nguyễn Hoàng N1 (Nhân nhỏ) bán với giá 2.500.000 đồng.
- Theo kết luận định giá tài sản: xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại xe Dream, màu sơn nâu, biển số 66K8-8178, trị giá 9.000.000 đồng.
- Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hoàng N1 khai nhận: vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, Cao Thành N gọi điện thoại nói mới đua được 01 xe Dream nhật bán giá 3.000.000 đồng. Nguyễn Hoàng N1 hiểu là xe của Nhân trộm mà có và đồng ý mua. Đến 19 giờ cùng ngày, Cao Thành N chở theo một thanh niên chạy đến nhà mẹ nuôi của Nguyễn Hoàng N1 và thống nhất giá mua bán 2.500.000 đồng. Sau khi biết được Công an huyện Tam Nông tìm làm việc thì Nhân đã chủ động nhờ người thân đến giao nộp lại xe đã mua.
- Đối với Nguyễn Văn Y2, sinh ngày 16/12/2006, tham gia cùng N bán xe trộm nhưng do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan điều tra đã lập hồ sơ giao cho gia đình và địa phương giáo dục.
- Việc Cao Thành N lấy xe mô tô 66B1-557.78 dùng làm phương tiện trộm xe thì Nguyễn Thành T7 và Nguyễn Chí B3 không biết nên không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Bùi Thành T8 và Nguyễn Thanh T7 không biết việc Cao Thành N trộm xe mô tô 66K8-8178 nên không xem xét xử lý.
- Tuy vắng mặt tại phiên tòa, nhưng ông Lê Thanh L1 có lời khai không yêu cầu bồi thường, do đã nhận lại được tài sản.
- Vật chứng thu được của vụ án gồm: các tài sản nêu trên đã được cơ quan điều tra thu giữ và giao trả, hiện chưa được xử lý gồm: 01 bình nhựa sử dụng ma túy đá; 01 cân tiểu ly; mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định trong phong bì màu trắng ghi ký hiệu N1 có khối lượng 0,033 gam loại Methamphetamine và 01 xe mô tô biển số 66N6-1094.
Tại bản án số 27/2020/HS-ST ngày 04/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Cao Thành N phạm tội “Trộm cắp tài sản”; các bị cáo Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 cùng phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm h, o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Cao Thành N 04 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 04 tháng 01 năm 2020.
- Căn cứ khoản 1 Điều 323; Điều 38; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Trịnh Kim P 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam là ngày 18 tháng 6 năm 2020.
- Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm a, s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Hoàng N1 01 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 11 tháng 8 năm 2020, bị cáo Nguyễn Hoàng N1 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Cùng ngày 18 tháng 8 năm 2020, các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P cùng có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm: Hành vi của bị cáo Cao Thành N bị Tòa án cấp sơ thẩm quy kết về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, bị cáo Trịnh Kim P và bị cáo Nguyễn Hoàng N1 bị Tòa án cấp sơ thẩm quy kết về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trịnh Kim P là chưa phù hợp vì bị cáo thực hiện hành vi tiêu thụ trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mà Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự đã xét xử. Xét mức hình phạt 04 năm tù đối với bị cáo Cao Thành N, 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Trịnh Kim P và 01 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Hoàng N1 mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp chứng cứ gì mới ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo.
Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định: Lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, trong khoảng thời gian từ tháng 6/2019 đến ngày 02/01/2020, bị cáo Cao Thành N cùng các đồng phạm đã thực hiện tổng cộng 10 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện T với tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt của các bị hại theo định giá là 47.600.000 đồng. Bị cáo Trịnh Kim P biết rõ xe mô tô biển kiểm soát 66P1-630.22 là do Cao Thành N trộm mà có nhưng bị cáo đã thỏa thuận mua lại với giá 1.000.000 đồng. Cũng như bị cáo Phát, bị cáo Nguyễn Hoàng N1 biết rõ xe mô tô biển kiểm soát 66K8-8178 là do Cao Thành N trộm mà có nhưng bị cáo vẫn thỏa thuận mua lại với giá 2.500.000 đồng.
[2] Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi đó đã gây xôn xao dư luận, gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Các bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ sức khỏe để lao động chân chính tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân. Nhưng vì muốn có tiền tiêu xài mà không cần phải lao động vất vả nên bị cáo Cao Thành N đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại với tổng giá trị tài sản theo định giá là 47.600.000 đồng. Các bị cáo Trịnh Kim P và Nguyễn Hoàng N1 biết rõ xe mô tô biển kiểm soát 66P1-630.22 và xe mô tô biển kiểm soát 66K8-8178 là tài sản do Cao Thành N trộm mà có nhưng bị cáo vẫn thỏa thuận mua lại để sử dụng. Các bị cáo thừa biết việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là vi phạm pháp luật, là có tội nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện chứng tỏ việc phạm tội của các bị cáo là cố ý và thực hiện tội phạm đã hoàn thành.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Cao Thành N về tội “Trộm cắp tài sản”, các bị cáo Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trịnh Kim P là chưa phù hợp vì bị cáo thực hiện hành vi tiêu thụ trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mà Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự đã xét xử. Cho nên, trong trường hợp này không được xem bị cáo Phát đã có tiền án. Do đó, sửa án sơ thẩm về phần áp dụng pháp luật, không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trịnh Kim P.
Xét mức hình phạt mà án sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 là phù hợp tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và đã có cân nhắc, xem xét về nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho các bị cáo. Các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng các bị cáo không xuất trình được những tình tiết mới ngoài các tình tiết mà án sơ thẩm đã xem xét. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo.
[4] Từ những nội dung trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 là có cơ sở, phù hợp pháp luật, nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
[5] Do kháng cáo của các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm
Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1. Giữ nguyên phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1.
Sửa án sơ thẩm về phần áp dụng pháp luật, không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trịnh Kim P.
Tuyên bố bị cáo Cao Thành N phạm tội “Trộm cắp tài sản”; các bị cáo Trịnh Kim P, Nguyễn Hoàng N1 cùng phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm h, o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Cao Thành N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 04 tháng 01 năm 2020.
Căn cứ khoản 1 Điều 323; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trịnh Kim P 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam là ngày 18 tháng 6 năm 2020.
Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm a, s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng N1 01 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Các bị cáo Cao Thành N, Trịnh Kim P và Nguyễn Hoàng N1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 312/2020/HS-PT ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 312/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về