TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 312/2020/DS-PT NGÀY 14/08/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, BUỘC THÁO DỞ VẬT KIẾN TRÚC VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 14 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 18/2019/TLPT–DS ngày 07 tháng 01 năm 2019 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất; buộc tháo dở vật kiến trúc và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 64/2018/DS-ST ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2018/2020/QĐ-PT ngày 27 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trương Thị NĐ, sinh năm 1953 (vắng mặt):
Địa chỉ: Số 304 tổ 24, khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Trương Thị P, sinh năm 1950 (có mặt):.
Địa chỉ (mới): Số 48 đường V1, khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn H – Văn phòng luật sư Nguyễn Văn H, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Long An (có mặt):
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị BĐ1, sinh năm 1956 (có mặt):
2. Ông Lâm Văn BĐ2, sinh năm 1953 (vắng mặt):
Cùng địa chỉ: Số 282 tổ 22, khu 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An:
Đại diện: Ông Phan Văn G – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C (vắng mặt).
2. Anh Lâm Văn NLQ1, sinh năm 1978 (có mặt):
3. Chị Đặng Thị Yến NLQ2, sinh năm 1980 (vắng mặt):
Cùng địa chỉ cư trú: Khu 3, thị trấn C, huyện C, Long An.
- Người kháng cáo: nguyên đơn, Bà Trương Thị NĐ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn bà Trương Thị NĐ trình bày tại đơn khởi kiện ngày 03/5/2017, đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 12/3/2018 và thông qua bà Trương Thị P đại diện trong quá trình tố tụng như sau:
Cha mẹ của bà Trương Thị NĐ là ông Trương Văn K (mất năm 2003) và bà Nguyễn Thị Hòa (mất năm 1999) để lại cho bà NĐ căn nhà trên thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An từ trước năm 1975. Nguồn gốc đất này cha mẹ bà NĐ tạo lập từ năm 1945. Đến ngày 23/02/2005, bà NĐ được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 271948, diện tích 338,2 m2 đối với thửa đất nêu trên. Trước nhà bà có hai hồ nước, bên bà BĐ1 cũng thừa nhận. Nằm liền kề với thửa đất số 71 là thửa đất số 63, tờ bản đồ số 14 do bà Nguyễn Thị BĐ1 đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giữa hai nhà có một lối đi bên hông nhà rộng 0,92m; dài 20,45m diện tích 18,85m2. Từ năm 1945 đến nay, gia đình bà sử dụng liên tục và bà có tráng xi-măng. Trên mái nhà che ra 0,5m, bên hông có cửa sổ hai cánh, mỗi cánh 0,8m mở ra trên diện tích hông nhà. Trước đây, giữa 2 bên đều xác định ranh giới cụ thể nhưng đến khoảng năm 2004 thì bắt đầu phát sinh tranh chấp. Bà BĐ1 đã khiếu nại ở khu phố, UBND thị trấn C và khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện C cho rằng bà NĐ đã có hành vi lấn đất. Tuy nhiên, khoảng tháng 6/2007, bà BĐ1 rút đơn. Sự việc tranh chấp kéo dài đến tháng 12/2016 thì bà BĐ1 tự ý dỡ hàng rào, tiến hành xây cất nhà cho con và xây dựng hàng rào mới trên phần đất tranh chấp, lấn sang phần đất của bà NĐ và chồng lấn lên nắp hồ do bà NĐ sử dụng. Khi bà BĐ1 xây nhà và hàng rào, bà NĐ có ngăn cản, khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thị trấn C. Ngày 29/12/2016, Ủy ban thị trấn C tiến hành hòa giải nhưng kết quả không thành. Sau đó, bà BĐ1 vẫn tiếp tục xây dựng, hoàn thiện như hiện trạng hiện nay. Hành vi của bà BĐ1 đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà NĐ. Bà NĐ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Yêu cầu bà Nguyễn Thị BĐ1 trả cho bà NĐ phần đất đã lấn chiếm có diện tích 28,4 m2 thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
2. Yêu cầu bà BĐ1 tháo dỡ toàn bộ công trình kiến trúc xây dựng trái phép trên đất lấn chiếm và phần đất thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
3. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 14, diện tích 229,4 m2 tọa lạc tại thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An do UBND huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị BĐ1.
Bị đơn bà Nguyễn Thị BĐ1 trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 63, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An có nguồn gốc của ông Lâm Văn Là. Đến năm 1983, ông Là chuyển nhượng thửa đất trên lại cho bà và ông Lâm Văn BĐ2. Đến ngày 16/8/2002, bà được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 277690, diện tích 229,4 m2 đối với thửa đất nêu trên. Liền kề với thửa đất 63 là thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14 do bà Trương Thị NĐ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trước đây, giữa 2 bên đều có ranh giới cụ thể. Sau đó phát sinh tranh chấp. Tranh chấp bắt đầu từ thời gian nào bà không nhớ rõ do thời gian đã quá lâu. Cán bộ địa chính đã xuống tiến hành đo đạc lại, cắm cọc phân ranh cụ thể nên đến tháng 12/2016 bà đã dỡ hàng rào trên phần đất của mình, tiến hành xây cất nhà cho con và xây dựng hàng rào mới. Bà xác định hàng rào mới có chồng lấn lên nắp hồ do bà NĐ sử dụng (hồ có từ trước năm 1945) nhưng chỉ chồng lên phần mép hồ, để nước không tràn sang nhà bà chứ không ảnh hưởng gì đến việc sử dụng của gia đình bà NĐ. Khi bà xây nhà, hàng rào, bà NĐ không có ngăn cản nhưng sau đó bà NĐ có khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thị trấn C. Ngày 29/12/2016, Ủy ban thị trấn C tiến hành hòa giải nhưng kết quả không thành. Sau đó, bà vẫn tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà và hàng rào như hiện trạng hiện nay. Bà xác định việc xây cất hoàn toàn không lấn chiếm sang phần đất tại thửa 71 của bà NĐ nên trước các yêu cầu khởi kiện của bà NĐ, bà không đồng ý vì toàn bộ các công trình xây dựng trên đều nằm trên phần đất của bà.
Căn nhà trên thửa 63 hiện bà cho hai vợ chồng con bà là anh Lâm Văn NLQ1 và chị Đặng Thị Yến NLQ2 ở nhưng thực tế bà vẫn đứng tên quyền sử dụng đất và các con bà cũng thường đi theo tàu đánh bắt cá trên biển, ít khi ở nhà.
Bị đơn ông Lâm Văn BĐ2 thống nhất theo trình bày của bà Nguyễn Thị BĐ1 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện C xin vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lâm Văn NLQ1 và chị Đặng Thị Yến NLQ2 trình bày: Anh chị thống nhất theo trình bày và ý kiến của bà BĐ1, không có ý kiến gì khác. Anh NLQ1 và chị NLQ2 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 64/2018/DS-ST ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị NĐ đối với bà Nguyễn Thị BĐ1, ông Lâm Văn BĐ2 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; buộc tháo dở vật kiến trúc” Buộc phía bà Nguyễn Thị BĐ1, ông Lâm Văn BĐ2 và vợ chồng anh Lâm Văn NLQ1, chị Đặng Thị Yến NLQ2 phải tháo dở, di dời, đập bỏ phần xây dựng, vật kiến trúc tại các vị trí C-1, C-2 và B-3 thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14 tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C để trả lại diện tích đất lấn chiếm 17,2m2 cho bà Trương Thị NĐ.
Bác một phần yêu cầu của bà Trương Thị NĐ buộc bà Nguyễn Thị BĐ1, ông Lâm Văn BĐ2 trả diện tích đất 11m2.
Phần đất diện tích 17,4m2 tại các vị trí C-1, C-2 và B-3 thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14 tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C có diện tích, tứ cận cụ thể theo Mảnh trích đo địa chính hệ tọa độ VN-2000 ngày 12/9/2018 - có tham khảo Mảnh trích đo địa chính được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai duyệt ngày 15/01/2018.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị NĐ đối với Ủy ban nhân dân huyện C về việc “Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 277690 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 16/8/2002 cho bà Nguyễn Thị BĐ1 đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 14, diện tích 229,4 m2 tọa lạc tại thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
Bà Trương Thị NĐ, bà Nguyễn Thị BĐ1 và ông Lâm Văn BĐ2 được quyền liên hệ cơ quan chức năng để đăng ký, kê khai, điều chỉnh quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí sơ thẩm, chi phí đo vẽ, giám định và thông báo về quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 29/11/2018, bà Trương Thị NĐ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà NĐ.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn bà Trương Thị NĐ, do bà Trương Thị P đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cùng thống nhất trình bày:
Nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc bà Nguyễn Thị BĐ1, ông Lâm Văn BĐ2 và vợ chồng ông Lâm Văn Đươm, bà Đặng Thị Yến NLQ2 phải đập bỏ bốn hàng gạch trên nắp hồ nước khu C-2, bức tường cao 02m, nhà tiền chế khu C-3 diện tích 9,9m2, tháo dỡ phần mái nhà và sàn nước phía sau; trả lại cho bà NĐ diện tích lấn chiếm là 28,4m2 và huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T277690 ngày 16/8/2002 do Uỷ ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị BĐ1 đối với phần diện tích đất 229,4m2, thửa đất số 63, tờ bản đồ số 14, toạ lạc tại thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An, với các lý do:
Nguồn gốc nhà đất của bà Trương Thị NĐ là do ông bà của bà NĐ có từ năm 1945 cho cha mẹ bà NĐ là ông Trương Văn K là cha (mất năm 2003) và bà Nguyễn Thị Hòa là mẹ (mất năm 1999) để lại từ trước năm 1975 có một cái hồ nước làm ranh từ mí hồ nước đi thẳng ra sau, chiều ngang ranh là 0.9m chiều dài 26,3m. Tổng diện tích là 28,4m2 trong đó, có 17,4m2 Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên trả cho bà NĐ còn 11m2 không trả. Phần 17,4m2 này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà NĐ còn 11m2 có thể đất của bà NĐ cấp nhầm sang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà BĐ1, chưa được văn phòng đăng ký đất đai huyện phê duyệt là không có giá trị. Bà NĐ chỉ yêu cầu trả 28,4m2 theo ranh 2 bên không tranh chấp đã 70 năm. Nếu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhầm thì nhà nước điều chỉnh lại cho đúng thực tế sử dụng của bà NĐ. Công ty đo đạc Hưng Phú đo ngày 15/1/2018 thể hiện bà Dể thiếu đất thiếu kích thước so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 307,5m2/338,2m2.
Hơn nữa, việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vảo mảnh trích đo tọa độ để giải quyết tranh chấp không dựa vào thực tế sử dụng trên 30 năm là chưa khách quan. Ranh mà bà BĐ1 thừa nhận là ranh bà đã trồng trụ xi măng từ năm 2002 đến nay ranh đất đã có từ năm 1945 đời ông bà của bà NĐ đến nay là trên 70 năm đã qua trên 5 đời chủ đều không tranh chấp.
Bị đơn bà Nguyễn Thị BĐ1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lâm Văn NLQ1 cùng thống nhất trình bày: đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà NĐ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trình bày quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: Các bên không thống nhất được ranh và không đưa ra được chứng cứ ranh do cơ quan chức năng xác định nên Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào ranh theo hệ tọa độ để chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị NĐ là có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ nào khác để chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét:
[1] Về tố tụng:
Bị đơn ông Lâm Văn BĐ2, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đặng Thị Yến NLQ2 đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Uỷ ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An (do ông Phan Văn G, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C là người đại diện) có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng trên.
[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN
[2.1] Đối với yêu cầu của bà Trương Thị NĐ về việc buộc bà Nguyễn Thị BĐ1 trả lại phần đất có diện tích 28,4m2:
Nguyên đơn bà Trương Thị NĐ cho rằng bị đơn bà Nguyễn Thị BĐ1 có hành vi lấn chiếm đất của bà, cụ thể là bà BĐ1 đã tự ý tiến hành xây cất nhà cho con bà BĐ1 và dựng hàng rào lấn sang phần đất của bà NĐ và chồng lên nắp hồ thuộc quyền sử dụng của bà NĐ. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu Toà án buộc bà NĐ trả lại cho bà phần đất lấn chiếm có diện tích 28,4 m2 thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 271948 ngày 23/02/2005, Uỷ ban nhân dân huyện C cấp cho bà NĐ quyền sử dụng phần diện tích 338,2m2, thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An. Theo Giấy chứng nhận trên, số đo tứ cận không được thể hiện, tuy nhiên, bà NĐ có cung cấp một bản đồ dãy thửa thể hiện mảnh đất được cấp cho bà có chiều ngang mặt tiền là 12,08m và ngang hậu là 13,28m.
Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T277690 ngày 16/8/2002, Uỷ ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị BĐ1 quyền sử dụng phần diện tích đất 229,4m2, thửa đất số 63, tờ bản đồ số 14, toạ lạc tại khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An. Theo Giấy chứng nhận được cấp, thửa đất này có chiều ngang mặt đường công cộng là 8,15m và ngang hậu là 8,75m.
Qua xem xét Mảnh trích đo địa chính năm 2018 của Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Hưng phú được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C duyệt ngày 15/01/2018, Hội đồng xét xử nhận thấy phần đất các bên đương sự thực tế sử dụng đều thiếu so với quyền sử dụng đất được cấp. Do đó, diện tích đất theo lời trình bày của các bên cũng như được thể hiện trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp không phải là căn cứ duy nhất để xác định việc bị đơn có lấn chiếm đất của nguyên đơn, mà cần xem xét vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Theo Mảnh trích đo hệ toạ độ VN-2000 ngày 11/9/2018, bà BĐ1 đã lấn chiếm phần đất của bà NĐ cụ thể như sau: Diện tích 0,3m2 ở vị trí B-3, diện tích 16,9m2 ở vị trí C-1. Đối với phần diện tích 0,2m2 ở vị trí C-2, theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ, bà BĐ1 đã xây gạch ống chồng lên nắp hồ nước thuộc quyền sử dụng của bà NĐ nên có căn cứ xác định vị trí này thuộc thửa 71. Như vậy, tổng diện tích đất của bà NĐ đã bị bà BĐ1 lấn chiếm là: 0,3m2 + 16,9m2 + 0,2m2= 17,4m2. Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên buộc bà Nguyễn Thị BĐ1, ông Lâm Văn BĐ2 và vợ chồng anh Lâm Văn NLQ1, chị Đặng Thị Yến NLQ2 trả lại cho bà NĐ diện tích đất 17,4m2 là có cơ sở.
[2.2] Đối với yêu cầu của bà Trương Thị NĐ về việc buộc hộ bà Nguyễn Thị BĐ1 tháo dỡ, di dời, đập bỏ phần xây dựng, vật kiến trúc trên đất tranh chấp:
Do bà BĐ1 đã có hành vi lấn chiếm 17,4m2 đất thuộc quyền sử dụng của bà NĐ và đã xây dựng công trình trên đất khi đang có tranh chấp nên Toà án cấp sơ thẩm buộc phía bị đơn phải tháo dỡ, di dời, đập bỏ phần xây dựng, vật kiến trúc tại các vị trí C-1, C-2 và B-3 thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14 tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C theo Mảnh trích đo địa chính hệ tọa độ VN-2000 ngày 12/9/2018 là phù hợp quy định của pháp luật.
[2.3] Đối với yêu cầu của bà Trương Thị NĐ về việc huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị BĐ1:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết”. Do phần đất đã cấp cho bà BĐ1 có chồng lấn diện tích đất 17,4m2 thuộc quyền sử dụng của bà NĐ, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của bà NĐ nên Toà án cấp sơ thẩm tuyên huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 277690 ngày 16/8/2002 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị BĐ1 đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 14, diện tích 229,4 m2 tọa lạc tại thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An là có căn cứ.
[2.4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trương Thị NĐ, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Các phần khác của bản án Tòa án cấp sơ thẩm, các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị nên phát sinh hiệu lực pháp luật.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: bà Trương Thị NĐ sinh năm 1953 nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo qui định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định đương sự là người cao tuổi được miễn án phí.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Trương Thị NĐ.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Áp dụng:
- Điều 26, Điều 34, Điều 35, Điều 147, Điều 148, Điều 157, Điều 165, Điều 296, Điều 313 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015:
- Điều 50, Điều 105 Luật Đất đai năm 2003:
- Điều 166, Khoản 2 Điều 170 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013:
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.
- Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị NĐ đối với bà Nguyễn Thị BĐ1 và ông Lâm Văn BĐ2.
1.1. Buộc phía bà Nguyễn Thị BĐ1, ông Lâm Văn BĐ2 và vợ chồng ông Lâm Văn NLQ1, bà Đặng Thị Yến NLQ2 phải tháo dở, di dời, đập bỏ phần xây dựng, vật kiến trúc tại các vị trí C-1, C-2 và B-3 thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14 tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C và trả lại phần diện tích đất lấn chiếm là 17,4m2 cho bà Trương Thị NĐ.
Phần đất diện tích 17,4m2 tại các vị trí C-1, C-2 và B-3 thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 14 tọa lạc tại khu 3, thị trấn C, huyện C có diện tích, tứ cận cụ thể theo Mảnh trích đo địa chính hệ tọa độ VN-2000 ngày 12/9/2018 - có tham khảo Mảnh trích đo địa chính được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai duyệt ngày 15/01/2018.
1.2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 277690 ngày 16/8/2002 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị BĐ1 đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 14, diện tích 229,4 m2 tọa lạc tại thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
Bà Trương Thị NĐ, bà Nguyễn Thị BĐ1 và ông Lâm Văn BĐ2 được quyền liên hệ cơ quan chức năng để đăng ký, kê khai, điều chỉnh quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị NĐ buộc bà Nguyễn Thị BĐ1 và ông Lâm Văn BĐ2 trả lại phần diện tích đất 11m2.
Các phần khác của bản án Tòa án cấp sơ thẩm, các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị nên phát sinh hiệu lực pháp luật.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Trương Thị NĐ được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Các bên thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 312/2020/DS-PT ngày 14/08/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất, buộc tháo dở vật kiến trúc và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 312/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về