TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Trần Văn Đ (tên gọi khác Đ1), sinh năm 1979 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp G, xã T1, huyện T2, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 00/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thị M (chết); có vợ là Lê Thị Th và 02 con; tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án số 83/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xử phạt Trần Văn Đ 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong ngày 09/01/2020, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 01/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng tại Cơ sở cai nghiện ma túy thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Tây Ninh, đến ngày 27/8/2018 chấp hành xong.
Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh để điều tra về tội “Đánh bạc” trong vụ án khác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh; “Có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Văn Đ là người nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng nên vào khoảng 12 giờ ngày 19/01/2021, Đ gặp và mua ma túy của người đàn ông không rõ nhân thân, lý lịch tại khu vực gần kênh cầu G thuộc ấp G, xã T1, huyện T2, tỉnh Tây Ninh với số tiền 200.000 đồng, Đ cất số ma túy vừa mua được vào phía sau lưng quần và đi vào quán cà phê gần đó để uống nước, rồi tiếp tục đi vào sòng bạc để chơi tài xỉu thắng thua bằng tiền cùng với nhiều người khác. Đến 17 giờ 15 phút cùng ngày, Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh phối hợp với Công an xã T1 bắt quả tang sòng bạc. Trong quá trình kiểm tra phát hiện thu giữ 01 bịch nylon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng (nghi là ma túy) trong lưng quần phía sau của Trần Văn Đ nên lập biên bản thu giữ tang vật và niêm phong, ký hiệu M1.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng, tài sản:
- 01 (một) bịch nylon trọng lượng 0,3571 (không phẩy, ba năm bảy một) gam, được hàn kín hai đầu, bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng thu trong bóp da của bị cáo Trần Văn Đ bỏ vào bì thư niêm phong mang đi giám định theo quy định, ký hiệu M1. Kết luận giám định là chất ma túy, tên gọi Methamphetamine, hoàn lại sau giám định còn 0,2805 (không phẩy, hai tám không năm) gam;
* Kết quả kê biên tài sản: Bị cáo Trần Văn Đ không có tài sản riêng có giá trị nên không tiến hành kê biên.
* Đối với hành vi của người bán ma túy cho Trần Văn Đ. Do hiện tại chưa xác định được nhân thân, lý lịch nên chưa xử lý. Khi nào xác định được và có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.
Tại Bản cáo trạng số 27/CT-VKS-KSĐT ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trần Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn Đ mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện kinh tế và khả năng thi hành của bị cáo Trần Văn Đ không có tài sản nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Xử lý vật chứng trong vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Đ: Thừa nhận toàn bộ hành vi pham tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo; bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi và quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 19/01/2021 tại ấp G, xã T1, huyện T2, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện T2 phối hợp với Công an xã T1 bắt quả tang nhóm 08 đối tượng đang đánh bạc bằng hình thức lắc tài xỉu ăn tiền trong đó có bị cáo Trần Văn Đ, Cơ quan Công an huyện Tân Biên kiểm tra phát hiện thu giữ 01 (một) bịch nylon chứa ma túy, tên gọi là Methamphetamine, trọng lượng 0,3571 gam trong lưng quần phía sau của bị cáo Trần Văn Đ. Hành vi của bị cáo Trần Văn Đ đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Do đó, Cáo trạng số 27/CT-VKS-KSĐT ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trần Văn Đ là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, mà trực tiếp là hoạt động tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời còn xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Nên cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho gia đình, xã hội, đồng thời phục vụ cho công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Khi quyết định hình phạt, cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo:
[4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trần Văn Đ có 01 tiền án về tội “Đánh bạc”, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, hết thời hiệu xóa tiền sự nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, nay lại thực hiện hành vi phạm tội về ma túy do đó cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích cho gia đình và xã hội đồng thời phục vụ cho công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[7] Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xét thấy bị cáo Trần Văn Đ không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đ.
[8] Xử lý vật chứng:
- 0,2805 (không phẩy, hai tám không năm) gam ma túy đựng trong 01 bì thư, ký hiệu M1, loại Methamphetamine và được niêm phong: Là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo Trần Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ (tên gọi khác Đ1) 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư, kí hiệu M1: 0,2805 (không phẩy hai tám không năm) gam ma túy còn lại sau giám định có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N1 và trợ lý giám định Lê Nhật N2.
(Vật chứng có đặc điểm chi tiết theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 22/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh).
3. Án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trần Văn Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 31/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 31/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về