TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 02/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02/7/2021, tại Phòng xét xử, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đã thụ lý số 31/2021/TLST-HS ngày 17/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HS ngày 21/6/2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 tại huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã ĐT, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1971 và bà Đoàn Thị H1, sinh năm 1971; có vợ là chị Hồ Thị HY và 02 con; tiền sự: Không; Tiền án: (01) Bản án số 55/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xử phạt H 16 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/9/2018 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 20/12/2019, H chấp hành xong án phạt tù (theo Giấy chứng nhận số 1340 ngày 20/12/2019 của Trại giam Hoàng Tiến- Cục C10), chưa được xóa án tích;
Nhân thân:
+ Ngày 10/5/2013 bị Chủ tịch UBND huyện Gia Lộc ra Quyết định số 1277/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn áp dụng 24 tháng. Ngày 29/5/2015, H chấp hành xong, đã được xóa.
+ Ngày 04/5/2015 bị Chủ tịch UBND huyện Gia Lộc ra Quyết định số 2853/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp sau cai nghiện ma túy, thời hạn áp dụng 24 tháng. Ngày 19/4/2017, H chấp hành xong, đã được xóa.
Bị bắt tạm giữ ngày 28/4/2021 đến ngày 01/5/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay (Có mặt).
* Người làm chứng: Ông Nguyễn Khắc Ch (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn H là đối tượng sử dụng ma túy đá (Methamphetamine). Khoảng 20 giờ ngày 28/4/2021, H đi bộ từ nhà tại thôn Đ, xã ĐT, huyện G ra đường, rồi thuê xe ôm của một người không quen biết đi từ xã ĐT đến khu vực cầu ĐN thuộc phường V, thành phố HD, tỉnh Hải Dương, mục đích tìm mua ma túy đá để sử dụng. Khi đến nơi, H xuống xe trả tiền xe ôm rồi đi bộ vào khu vực chân cầu ĐN. Tại đây, H gặp một đàn ông không quen biết, giống người nghiện ma túy như bị cáo. Người này hỏi H “Có mua ma túy không?” H trả lời “Có, anh có bán đá không, bán cho em một triệu rưỡi” Người này hiểu ý H muốn mua ma túy đá nên đồng ý. H đưa cho người này 1.500.000đồng. Người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho H một túi nilon trong suốt bên trong có chứa ma túy đá rồi bỏ đi. H cất túi ma túy đá vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi thuê xe ôm của một người đàn ông khác không quen biết đi về đường NCN thuộc thị trấn G, huyện G thì xuống xe. H đi bộ vào quán ăn đêm, định ăn xong sẽ tìm chỗ sử dụng ma túy. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi H đi bộ đến trước cửa nhà số 340 đường NCN, thị trấn G, huyện G thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp với Công an thị trấn G phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong túi áo trước ngực bên trái H đang mặc được 01 túi nilon màu trắng trong suốt, có kích thước (4x7)cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. H khai nhận đó là ma túy đá (Methamphetamine) cất giấu để sử dụng cho bản thân.
Tại bản Kết luận giám định số 234/KLGĐ-PC09 ngày 30/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hải Dương kết luận: “Chất rắn (dạng tinh thể) mầu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M, ghi thu của Nguyễn Văn H, gửi đến giám định tổng khối lượng là: 1,424g (Một phẩy bốn trăm hai mươi bốn gam) là ma túy, loại Methamphetamine.”...
Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 17/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Gia Lộc giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 26 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 vỏ túi nilon màu trắng và toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định; Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, xác định nội dung bản Kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Gia Lộc và quyết định truy tố, luận tội của VKSND huyện Gia Lộc đối với bị cáo là đúng và nói lời sau cùng xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại gì. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện được xác định là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, kết luận giám định và một số tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/4/2021 tại khu vực trước cửa nhà số 340 đường NCN, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn H đang có hành vi cất giấu trái phép trong túi áo trước ngực trái đang mặc 01 túi nilon màu trắng trong suốt bên trong chứa 1,424 gam là ma túy loại Methamphetamine thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp với Công an thị trấn G, huyện G phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Bị cáo tự nguyện giao nộp và khai cất giấu gói ma túy đó với mục đích để sử dụng cho bản thân.
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cất giấu chất ma túy là trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện để có ma túy sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, tổng khối lượng chất ma túy bị cáo cất giấu là 1,424gam là ma túy, loại Methamphetamine. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Xác định VKSND huyện Gia Lộc truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây tác hại rất lớn đến con người cũng như toàn xã hội, ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại vi phạm, tội phạm khác. Do đó cần thiết phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục, trừng trị, răn đe, qua đó đảm bảo công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.
[4] Về nhân thân, tiền án, tiền sự, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, bị cáo đã thi hành xong, được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính (theo Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (theo bản án số 55/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương); ngày 01/3/2019, nộp án phí; ngày 20/12/2019 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo chưa được xóa án tích theo quy định nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “Tái phạm” quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS. Do đó, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
[5] Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX thấy bị cáo không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân, coi thường trật tự, kỷ cương của nhà nước. Do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian thích hợp để Nhà nước giáo dục bị cáo, để bị cáo suy ngẫm về những hành động của mình, qua đó đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: 01 vỏ túi nilon màu trắng, toàn bộ số ma túy được hoàn lại sau giám định là 1,288gam Methamphetamine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp quy định của pháp luật.
[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai đã mua 01 túi nilon chứa ma túy đá của một người đàn ông không biết lai lịch tại khu vực cầu ĐN thuộc phường VH, thành phố HD, tỉnh Hải Dương. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra không xác định được người này là ai nên không có căn cứ xử lý. HĐXX không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án là có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, các điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 28/4/2021).
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 1,288gam Methamphetamine và 01 vỏ túi nilon màu trắng được hoàn lại sau giám định trong phong bì thư dán kín niêm phong số 234/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hải Dương (theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Gia Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc ngày 30/6/2021).
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 02/7/2021).
Bản án 31/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 31/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về