Bản án 31/2021/HS-PT ngày 13/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 31/2021/HS-PT NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 623/2020/TLPT- HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc L. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2020/HS-ST ngày 16/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

- Bị cáo có kháng cáo:

NGUYỄN NGỌC L (tên gọi khác: L Rồng Đỏ) – sinh năm: 1977, tại Khánh Hòa, Giới tính: Nam Hộ khẩu thường trú: tổ dân phố Th, phường CT, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa.

Nơi cư trú: khu phố 6, phường PM, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: thiên chúa giáo; Con ông: Nguyễn Văn B và bà Phan Thị Bích T; Vợ: Nguyễn Thị Khánh N, sinh năm: 1981(đã ly hôn), Trịnh Thị Mỹ H, sinh năm: 1977 (đã ly hôn ); Có 02 con, Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 15/05/2014, bị Tòa án nhân dân huyện B1, tỉnh Bình Thuận xử phạt 05 năm 06 tháng tù về các tội “Chống người thi hành công vụ” và “Không chấp hành các quyết định hành chính của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh”. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 23 tháng 08 năm 2016.

Nhân thân: Ngày 30/10/2012, bị Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết ra quyết định số 1837/QĐ – UBND đưa vào Trung tâm chữa bệnh- Giáo dục - Lao động xã hội tỉnh Bình Thuận, thời hạn 12 tháng về hành vi “Thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy”.

Tạm giữ: 22/12/2018; chuyển Tạm giam: 28/12/2018;

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Thuận (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc L: Luật sư Hứa Thanh K - Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng thương mại cổ phần V (V Bank).

Đại diện theo pháp luật: ông Ngô Chí D – Chủ tịch Hội đồng quản trị (vắng mặt).

Đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Minh V1, sinh năm: 1993. Địa chỉ: Số 26 Y, phường VT, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa. (Văn bản ủy quyền ngày 04/01/2021) (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Bà Lê Thị Thùy NLC1, sinh năm: 1986. Nơi cư trú: Tổ dân phố Th, xã Th, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa (vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị Kim NLC2, sinh năm: 1992. Nơi cư trú: Khu phố 1, phường KD, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Trọng NLC3, sinh năm: 1987. Nơi cư trú: Khu phố 6, phường PM, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

4. Bà Nguyễn Thị NLC4, sinh năm: 1988. Nơi cư trú: Khu phố 6, phường PM, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

5. Ông Lưu Minh NLC5, sinh năm: 1993. Nơi cư trú: Khu phố 1, phường KD, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

6. Ông Nguyễn Thành NLC6, sinh năm: 1990. Nơi cư trú: Khu phố 6, phường TT, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

7. Ông Nguyễn Long NLC7, sinh năm: 1989. Nơi cư trú: Khu phố 1, phường TS, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

8. Ông Tô Văn NLC8, sinh năm: 1990. Nơi cư trú: Khu phố 12, thị trấn PD, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

9. Bà Nguyễn Thị NLC9, sinh năm: 1997. Nơi cư trú: Thôn 4, xã HĐ, huyện B1, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

10. Ông Nguyễn Văn NLC10, sinh năm: 1985. Nơi cư trú: Khu phố 24, thị trấn PC, huyện TP, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

11. Ông Kiều Văn NLC11, sinh năm: 1979. Nơi cư trú: Tổ dân phố TL, phường CT, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa (vắng mặt).

12. Bà Lê Thị Thu NLC12, sinh năm: 2001. Nơi cư trú: Thôn QP, xã CN, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa (vắng mặt).

13. Bà Nguyễn Thị Việt NLC13, sinh năm: 1998. Nơi cư trú: Khu phố 5, thị trấn PD, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Ngọc L tại Khu phố 6, phường PM, thành phố P. Thu giữ: 03 bịch ny lon đã được hàn kín, bên trong có chứa tinh thể dạng rắn, màu trắng để trong bình nhựa ở khu vực bếp, 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 02 đoạn ống hút nhựa màu trắng, trong suốt, được hàn kín một đầu, một đầu được cắt nhọn, 02 cây kéo bằng kim loại, 03 cân tiểu ly, 39 đoạn ống thủy tinh trong suốt, 03 đoạn ống hút nước nhựa màu trắng tím, 06 đoạn ống hút nước nhựa trong suốt và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen.

Tại Kết luận giám định số: 607/C09B ngày 25/12/2018 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Số ma túy thu giữ 03 bịch ny lon tại nhà Nguyễn Ngọc L là ma túy đá Methamphetamine, có tổng khối lượng 110,5076gam.

Nguyễn Ngọc L khai nhận ngày 19/12/2018 đã mua 03 bịch ma túy của một người nam thanh niên tên Tú (không rõ địa chỉ cụ thể) ở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 20.000.000đ để sử dụng.

Tuy nhiên, qua điều tra, xác định: L không mua ma túy của người tên Tú ở quận Bình Thạnh mà L chuyển số tiền 3.510.950.000đ cho Cao Thanh S, ở:

104/4, đường ĐTH, Phường 1, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh qua số tài khoản 060155420092 mở tại Ngân hàng SacomBank. Cao Thanh S có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hiện tại S không có mặt tại địa phương nên chưa làm rõ.

Ngoài ra còn làm rõ hành vi của L như sau:

Khoảng đầu tháng 7/2018, Nguyễn Ngọc L có quan hệ tình cảm và sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Việt NLC13. Ngày 14/8/2018, L nhờ NLC13 đứng tên mua căn nhà cấp 4 tại khu phố 6, phường PM của ông Dương Đình Xuân với giá 185.000.000đ để làm nơi ở. Quá trình chung sống L cho NLC13 sử dụng ma túy, L nói với NLC13 là mình làm nghề mua bán tôm giống và thức ăn nuôi tôm, NLC13 không nghi ngờ gì về việc làm của L. Sau đó NLC13 thấy L đi sớm về trễ thất thường, một lần do nghi ngờ nên NLC13 mở giỏ xách của L thì thấy bên trong có nhiều viên nén màu hồng, màu xanh lá và tinh thể màu trắng; ngoài ra nhiều lần trước đó NLC13 thấy có vài người đến gặp L trao đổi rồi đi, trong số những người này NLC13 biết một người tên là “L1 Em)” (tức là Lưu Minh NLC5). Từ đó, NLC13 biết L không phải mua bán tôm mà nghi L bán ma túy. NLC13 có hỏi L: “Anh bán ma túy phải không?”, “Tại sao có nhiều”. L liền chửi NLC13: “Biết chi cho nhiều”, NLC13 và L cãi nhau. Cuối tháng 11 năm 2018, NLC13 bỏ về nhà cha mẹ mình ở khu phố 5, thị trấn PD, huyện NP, không tiếp tục chung sống với L nữa.

Sau khi Nguyễn Thị Việt NLC13 bỏ đi, vào tháng 12/2018 L thường ra thành phố Cam Ranh và nghỉ tại khách sạn Sen Vàng, quen biết với Lê Thị Thu NLC12 là nhân viên phục vụ khách sạn Sen Vàng nên L thường cho NLC12 sử dụng chung ma túy. Sau đó L rủ NLC12 vào Phan Rang sống chung với mình tại khu phố 06, phường PM. NLC12 ở với L đến ngày 17/12/2018 thì về Cam Ranh thăm gia đình, đến chiều ngày 19/12/2018 NLC12 vào lại Phan Rang sống với L đến ngày 22/12/2018 khi Công an khám xét nhà L lúc này có NLC12. Trong thời gian sống chung, NLC12 được L cho ma túy đá để sử dụng, đồng thời NLC12 chứng kiến một số việc làm của L, cụ thể như sau:

- Vào khoảng 17 giờ chiều ngày 15/12/2018, L đi đâu về rồi lấy một bịch ma túy khoảng 200g ra để trên bàn trang điểm trong phòng ngủ rồi khoe với NLC12 là: “Em thấy có nhiều không”, NLC12 hỏi lại: “Anh lấy làm gì nhiều dữ vậy” thì L trả lời: “Vậy là còn ít đó do anh chưa có tiền thôi”.

- Đến khoảng 21 giờ ngày 16/12/2018, NLC12 thấy có một thanh niên đến nhà sử dụng ma túy cùng với L. Khi người này ra về thì L có nói với NLC12 đây là Lắc (Lưu Minh NLC5) bạn anh đến sử dụng ma túy để chào hàng sau đó L có bán cho Lắc một hộp 10g giá 7.000.000đ. Ngoài ra, NLC12 còn thấy một số người khác đến mua ma túy của L nhưng NLC12 không biết tên.

- Trong đêm 20/12/2018 L có nói với NLC12: “Thằng Lâm vừa bị Công an Phan Rang bắt anh nghĩ nó hại anh”.

Ngoài ra, NLC12 thấy cứ khoảng 3 đến 4 ngày thì L đi ra ngoài một lần khoảng 12 tiếng là về nói là đi công việc. Khi đi NLC12 thấy L mang theo toàn bộ ma túy đá cùng cân tiểu ly.

Cơ quan điều tra đã xác định được cụ thể số người mua ma túy đá của L như sau:

* Tại tỉnh Ninh Thuận Khánh Hòa, L đã bán cho các đối tượng như sau:

1. Nguyễn Thành NLC6: sinh năm: 1990; HKTT: khu phố 6, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

Trong thời gian chấp hành án tại Trại giam Sông Cái, L quen biết với Nguyễn Thành NLC6. Sau khi chấp hành xong hình phạt L liên lạc với NLC6 để giới thiệu mua ma túy và NLC6 đồng ý. Hai bên thống nhất phương thức mua bán ma túy là NLC6 chuyển tiền mua ma túy vào tài khoản số 060155420270 của L ở Ngân hàng Sacombank rồi L sẽ giao ma túy, cụ thể các lần:

- Lần 1: Vào buổi trưa khoảng ngày 20/4/2018, tại khu vực gần Quảng trường 16/4, thành phố P, NLC6 mua một hộp (10gam) ma túy đá với giá 6.000.000đ. NLC6 đưa trước cho L 1.000.000đ, nợ lại 5.000.000đ và hẹn chuyển khoản sau cho L.

- Lần 2: Vào buổi trưa hai ngày sau (khoảng ngày 22/4/2018), cũng tại khu vực gần Quảng trường 16/4, NLC6 mua hai hộp (20 gam) ma túy đá với giá 12.000.000đ và tiếp tục nợ tổng cộng là 17.000.000đ. Đến ngày 23/4/2018, NLC6 đến ngân hàng Sacombank, Phòng giao dịch Cam Ranh gửi vào tài khoản của L số tiền 15.000.000đ và còn nợ lại 2.000.000đ.

- Lần 3: Vào buổi tối khoảng ngày 04/5/2018, tại khu vực gần cầu Trà Long, thành phố Cam Ranh, NLC6 mua một hộp (10 gam) ma túy đá với giá 6.000.000đ và nợ 8.000.000đ. Đến ngày 05/5/2018, NLC6 đến ngân hàng Sacombank chi nhánh tỉnh Ninh Thuận để gửi vào tài khoản của L số tiền 6.000.000đ còn nợ lại 2.000.000đ.

- Lần 4: Vào chiều tối khoảng ngày 07/5/2018, cũng tại khu vực gần cầu Trà Long. NLC6 mua hai hộp (20 gam) ma túy đá với giá 12.000.000đ và nợ lại số tiền 14.000.000đ. Ngày 09/5/2018, NLC6 đến ngân hàng Sacombank chi nhánh tỉnh Ninh Thuận để gửi vào tài khoản của L số tiền 16.000.000đ lần này NLC6 gửi trước cho L 2.000.000đ để mua ma túy sau.

- Lần 5: Buổi chiều khoảng ngày 17/5/2018, tại khu vực cuối đường 16/4 đoạn giao với đường Yên Ninh, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm. NLC6 mua một hộp (10 gam) ma túy đá với giá 6.000.000đ, do đã đưa trước cho L 2.000.000đ, còn nợ lại 4.000.000đ.

- Lần 6: Buổi chiều khoảng ngày 19/5/2018, tại khu vực cuối đường 16/4 đoạn giao với đường Yên Ninh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, mua một hộp (5 gam) ma túy đá với giá 3.000.000đ và nợ số tiền 7.000.000đ.

- Lần 7: Vào buổi sáng khoảng ngày 20/05/2018, tại khu vực gần Quảng trường 16/4, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, NLC6 mua một hộp (10 gam) ma túy đá với giá 6.000.000đ và nợ 13.000.000đ.

- Lần 8: Vào buổi trưa khoảng ngày 21/5/2018, tại khu vực gần cầu Trà Long. NLC6 mua một hộp (10 gam) ma túy đá với giá 6.000.000đ và nợ lại 19.000.000đ.

- Lần 9: Vào tối khoảng ngày 22/5/2018, tại khu vực gần cầu Trà Long, NLC6 mua một hộp (10 gam) ma túy đá với giá 6.000.000đ và nợ tổng cộng là 25.000.000đ. Ngày 23/5/2018, NLC6 đến ngân hàng Sacombank, Phòng giao dịch Cam Ranh gửi vào tài khoản của L số tiền 25.000.000đ.

Trong các lần đi bán ma túy cho NLC6 thì L sử dụng xe ôtô biển số 79A- 17879 do L là chủ sở hữu để làm phương tiện đi lại và sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen để liên lạc.

Tổng cộng L bán cho NLC6 09 lần, tổng khối lượng là 105g ma túy đá với số tiền 63.000.000đ.

2. Lưu Minh NLC5 (L1 Em), sinh năm: 1993; HKTT: khu phố 1, phường KD, thành phố P; Nguyễn L NLC7 (T1 Em) – sinh năm: 1989; HKTT: khu phố 1, phường TS, thành phố P.

Cũng trong thời gian chấp hành án tại trại giam Sông Cái, L quen biết với Nguyễn Long Toàn là anh trai của Nguyễn Long NLC7. Thông qua T1, L đã xin số điện thoại của NLC7. Sau khi ra tù từ tháng 3 năm 2018, L liên lạc với NLC7 và ngỏ ý muốn gặp NLC7 và được NLC7 đồng ý. Khoảng 15 giờ chiều một ngày trong tháng 03 năm 2018, L từ Cam Ranh vào Phan Rang hẹn gặp NLC7 tại chợ Hoa đường 16/04 L ngỏ ý giúp NLC7 làm ăn nhưng không nói việc gì. Khoảng 10 ngày sau, L gọi điện cho NLC7 xuống khách sạn Nam Dương ở phường Mỹ Bình. Tại đây, L cho NLC7 sử dụng ma túy chung, lúc này L nói với NLC7: “Trong này có ai tin tưởng thì giúp anh tiêu thụ ma túy”. NLC7 nói: “không biết ai”. Khoảng 5 ngày sau lúc 19 giờ một ngày đầu tháng 4 năm 2018 L tiếp tục gọi NLC7 xuống khách sạn Nam Dương và cho NLC7 sử dụng ma túy rồi dẫn NLC7 đi chơi quán bar, vũ trường Phan Rang với mục đích móc nối để bán ma túy nhưng NLC7 từ chối không đi.

Đến khoảng tháng 6/2018, NLC7 gặp Lưu Minh NLC5 là đối tượng nghiện ma túy và NLC7 có kể cho Phụng nghe việc mình biết L là người bán ma túy, nghe vậy NLC5 liền nói: “Vậy anh liên lạc lấy số lượng nhiều anh em mình cùng sử dụng chung”, NLC7 đồng ý.

Đầu tháng 7/2018, NLC5 nói với NLC7 lấy giúp hộp 5gam ma túy. NLC7 điện thoại cho L thì L cho địa chỉ nhà của mình ở thành phố R để NLC5 và NLC7 tới. Tại nhà L, L cùng NLC5 và NLC7 sử dụng ma túy chung và NLC5 đã mua của L 01 hộp 5 gam ma túy đá với giá 3.000.000đ.

Ngày 10/7/2018 NLC5 tiếp tục nói với NLC7 liên lạc với L để mua một hộp 5g ma túy. Đến 19 giờ cùng ngày, L hẹn ra bến xe mới trên đường Lê Duẩn, L đi xe ô tô biển số 79A-17879 vào gặp và giao ma túy cho NLC5. NLC5 đưa cho L 1.500.000đ và thiếu lại 1.500.000đ. Đến ngày 24/7/2018, NLC5 đưa cho NLC7 1.500.000đ để trả cho L. Tâm gửi tiền vào số tài khoản là 050092107482 của L tại ngân hàng Sacombank chi nhánh tỉnh Khánh Hòa.

Ngoài ra NLC5 đã trực tiếp liên hệ mua ma túy của Nguyễn Ngọc L như sau:

Sau khi quen biết nhau, L cho NLC5 số điện thoại của mình để liên lạc. Đầu tháng 10/2018, NLC5 gọi điện cho L để hỏi mua ma túy và hẹn gặp nhau tại nhà của L ở khu phố 6, phường PM. Tại đây, NLC5 mua một hộp (5 gam) và trả 3.000.000đ.

Khoảng ngày 07/10/2018, NLC5 đi xe mô tô chở theo Nguyễn Thị Kim NLC2 (vợ NLC5) đến nhà L mua ma túy. Khi đến nhà L, NLC5 để NLC2 đứng ngoài đường, còn NLC5 vào nhà gặp L mua một hộp (5 gam) ma túy đá và trả cho L 3.000.000đ.

Vào khoảng giữa tháng 10/2018, NLC5 hỏi mua của L hai hộp (20 gam) ma túy đá với giá 12.000.000đ và nói với L mua nợ. L đồng ý và cho NLC5 số tài khoản số 050092107482 ở ngân hàng Sacombank để NLC5 gửi tiền sau. Sau đó, L đi xe ô tô 79A-17879 đến gặp NLC5 tại khu vực gần cây xăng đường Quang Trung, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm giao ma túy cho NLC5. Đến đầu tháng 11/2018, NLC5 đưa cho NLC2 số tiền 12.000.000đ và bảo NLC2 đến ngân hàng Sacombank gửi tiền cho L.

Khoảng giữa tháng 12/2018, NLC5 chở NLC2 đến nhà của L để mua một hộp (10 gam) ma túy đá giá 6.000.000đ. Lần này, NLC5 để NLC2 ngồi ở phòng khách, còn NLC5 vào trong phòng ngủ của L mua bán số ma túy trên rồi sau đó đi về.

Trong những lần NLC2 gửi tiền cho L và cùng đi với NLC5 thì NLC2 không biết việc NLC5 và L mua bán ma túy.

Tổng cộng L bán cho NLC5 06 lần, tổng khối lượng 50g ma túy đá với số tiền 30.000.000đ.

3. Tô Văn NLC8 (Cu Lớn), sinh năm: 1990; HKTT: Khu phố 12, thị trấn PD, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận.

Tô Văn NLC8 được Nguyễn Thị Việt NLC13 giới thiệu với L để NLC8 tìm hiểu mua ma túy, nên đầu tháng 12/2018, NLC8 đến nhà L sử dụng ma túy và kiểm tra chất lượng. Khi hỏi giá để mua khoảng 7.500.000đ một hộp (10 gam) ma túy đá thì NLC8 thấy đắt nên không mua.

* Tại tỉnh Bình Thuận: L đã bán cho các đối tượng như sau:

1. Nguyễn Văn NLC10 - sinh năm: 1985; HKTT: khu phố 24, thị trấn PC, huyện TP, tỉnh Bình Thuận.

Thông qua mối quan hệ xã hội, L làm quen với Nguyễn Văn NLC10 và cả hai thống nhất giá mua bán một hộp (10 gam) ma túy đá là 5.000.000đ, cụ thể các lần mua bán như sau:

- Lần 1: Vào thời gian cuối tháng 6/2018, NLC10 hỏi mua năm hộp (50 gam) ma túy đá giá 25.000.000đ. L yêu cầu NLC10 trả tiền trước qua số tài khoản 060155420270 của L ở ngân hàng Sacombank tại phòng giao dịch Nơ Trang L chi nhánh quận Bình Thạnh. Đến ngày 25/6/2018, NLC10 đến ngân hàng Sacombank, phòng giao dịch PC, chi nhánh tỉnh Bình Thuận gửi vào tài khoản của L số tiền 29.000.000đ. Trong đó, 25.000.000đ NLC10 trả tiền để mua ma túy còn 4.000.000đ là tiền của một người tên Quẹo (không rõ họ tên địa chỉ) nhờ NLC10 gửi cho L. Sau khi đã nhận được tiền, đến 22 giờ cùng ngày, L đi xe ôtô giao 50 gam ma túy đá cho NLC10 trên Quốc lộ 1A tại khu vực xã Chí Công, huyện TP, tỉnh Bình Thuận.

- Lần 2: Khoảng ngày 11/7/2018, Nông hỏi mua bốn hộp (40 gam) ma túy đá với giá 20.000.000đ. L bảo NLC10 trả tiền trước. Cũng như lần trước NLC10 chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng cho L và đến 21 giờ cùng ngày, L chạy xe ô tô giao ma túy cho NLC10 ở địa điểm cũ.

Tổng cộng L bán cho NLC10 02 lần với 90g ma túy đá với số tiền 45.000.000đ.

2. Nguyễn Thị NLC9 - sinh năm: 1997; HKTT: Thôn 4, xã HĐ, huyện B1, tỉnh Bình Thuận.

NLC9 đã mua ma túy đá của L cụ thể các lần như sau:

- Lần 1: Vào cuối tháng 12/2017, NLC9 liên lạc với L mua một hộp (5gam) ma túy đá với giá 3.000.000đ. L hẹn gặp nhau tại nhà nghỉ Gia Linh, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Tại đây, L đưa ma túy cho NLC9 và NLC9 hẹn nợ tiền trả sau. Đến ngày 29/12/2017, NLC9 đến ngân hàng Sacombank tại thành phố Phan Thiết chuyển vào tài khoản của L số tiền 3.000.000đ.

- Lần 2: Vào khoảng một tuần sau, NLC9 hỏi mua một hộp (5 gam) ma túy đá với giá 3.000.000đ. L giao ma túy cho NLC9 ở khu vực gần Ủy ban nhân dân xã HĐ, huyện B1, tỉnh Bình Thuận. Đến ngày 09/01/2018, NLC9 đến ngân hàng Sacombank tại Phan Thiết chuyển vào tài khoản của L 3.000.000đ.

Tổng cộng L bán cho NLC9 02 lần với 10g ma túy đá với số tiền 6.000.000đ.

* Tại tỉnh Khánh Hòa: L đã bán cho các đối tượng như sau:

1. Nguyễn Văn Thế - sinh năm: 1992; HKTT: Tổ dân phố HB, phường CN1, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa.

Thế đã mua ma túy tại chỗ trọ của L (gần cầu Trà Long) thuộc phường Ba Ngòi, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa, cụ thể các lần mua như sau:

- Lần 1: Vào buổi trưa khoảng ngày 10/5/2018, Thế mua 0,625 gam ma túy đá với giá 1.000.000đ.

- Lần 2: Trưa ngày 17/5/2018, Thế tiếp tục mua 0,625 gam ma túy đá với giá 1.000.000đ nhưng Thế không trả tiền mà thế chấp giấy phép lái xe ô tô cho L.

- Lần 3: Khoảng trưa ngày 27/5/2018, Thế mua 0,625 gam ma túy đá với giá 1.000.000đ.

- Lần 4: Khoảng trưa ngày 12/6/2018, Thế mua 0,625 gam ma túy đá với giá 1.000.000đ.

- Lần 5: Khoảng ngày 19/6/2018, Thế mua một bịch ma túy đá (không rõ khối lượng) với số tiền 700.000đ và Thế tiếp tục nợ tiền của L.

Tổng cộng L bán cho Thế 05 lần với 2,5g ma túy đá với số tiền 4.000.000đ và 01 bịch ma túy (không rõ khối lượng) với số tiền 700.000đ.

2. Kiều Văn NLC11 (Hào), sinh năm: 1979; HKTT: Tổ dân phố TL, phường CT, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa;

Kiều Văn NLC11 khai nhận: trong khoảng thời gian tháng 9 đến tháng 10/2018, L có đến gặp NLC11 để hỏi vay tiền, NLC11 đồng ý cho vay 5%/tháng và hai bên trao đổi thống nhất khi nào cần thì liên lạc và NLC11 nhờ Lê Thị Thùy NLC1 (bạn gái NLC11) đến ngân hàng Sacombank gửi vào tài khoản số 050092807482 cho L, Cụ thể:

- Lần 1: Ngày 11/9/2018, chuyển số tiền: 18.200.000đ.

- Lần 2: Ngày 17/9/2018, số tiền: 29.600.000đ .

- Lần 3: Ngày 02/10/2018, số tiền: 121.500.000đ - Lần 4: Ngày 22/10/2018, số tiền: 12.500.000đ Kiều Văn NLC11 đã mua ma túy của L để sử dụng sau mỗi lần L trả tiền vay, Huệ đã ba lần mua ma túy của L, mỗi lần một tép với giá 500.000đ.

Tổng cộng L bán cho NLC11 03 lần 03 tép ma túy đá với số tiền 1.500.000đ.

3. Trần Lê Đình Nhựt: HKTT: LH, CL, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa.

Khai thác điện thoại di động của Nguyễn Ngọc L, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Thuận đã trích xuất dữ liệu tin nhắn từ tài khoản FaceBook “Tri Huu Nguyen” của L đã nhắn cho Trần Lê Đình Nhựt tên tài khoản là “Nhựt Trần” với nội dung trao đổi mua bán ma túy gồm: kẹo (thuốc lắc), cơm (ma túy đá), khay (Ketamine) và nước (ma túy dạng lỏng). L là người cung cấp ma túy cho Nhựt còn Nhựt là người chuyển tiền trả cho L. Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc L không thừa nhận là đã bán ma túy cho Nhựt mà chỉ là nhắn tin nói chuyện phiếm với nhau trên FaceBook. Do Nhựt không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được với Nhựt nhưng với những tài liệu chứng cứ thu thập được xác định Nhựt đã chuyển tiền cho L, như sau:

- Ngày 20/4/2018 Nhựt chuyển 6.500.000đ vào tài khoản số 060155420270 của L.

- Ngoài ra Nhựt còn gửi vào tài khoản số 050092107482 của L gồm: ngày 30/07/2018, số tiền 5.000.000đ; ngày 03/8/2018, số tiền 5.500.000đ; ngày 22/8/2018, số tiền 3.000.000đ; ngày 21/9/2018, số tiền 21.000.000đ; ngày 03/10/2018, số tiền 42.000.000đ; ngày 06/12/2018, số tiền 5.000.000đ.

Hiện tại Trần Lê Đình Nhựt không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ để có cơ sở xử lý hành vi mua bán ma túy này của L và Nhựt.

Kết quả điều tra còn xác định trong thời gian hai năm 2017, 2018 có một số đối tượng đã nhiều lần gửi tiền vào tài khoản của L như: Vợ chồng Nguyễn Thị Trúc Quy, sinh năm 1988; Phan Xa, sinh năm 1987; HKTT: thôn 5, xã HĐ, huyện B1, tỉnh Bình Thuận: 15.000.000đ; Dương Trúc Phương, sinh năm 1981; HKTT: khu phố 7, phường ĐL, thành phố PT, tỉnh Bình Thuận: 6.000.000đ; Phạm Thị Viên, sinh năm 1977; HKTT: khu phố 3, phường PH, thị xã L, tỉnh Bình Thuận:

3.000.000đ; La Ngọc Trung, sinh năm 1992; HKTT: Tổ dân phố LH, phường CL, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa: 9.000.000đ; Mai Thị Lâm Tuyền, sinh năm 1992; HKTT: thôn TN, xã CĐ, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa: 37.500.000đ; Nguyễn Đức Duy, sinh năm 1985; HKTT: tổ dân phố KC, phường BN, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa: 76.000.000đ; Hồ Quốc Nam, sinh năm 1993; HKTT: tổ dân phố HB, phường CN1, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa: 11.000.000đ; Nguyễn Thị Hiền Thê, sinh năm 1989; HKTT: N2, CĐ, CL, Khánh Hòa: 7.500.000đ; Nguyễn Thị Thu Thảo, sinh năm 1979; HKTT: XN, CP, R, Khánh Hòa: 12.000.000đ; Nguyễn Thành Trung, sinh năm 1988; HKTT: tổ dân phố HT, phường CN1, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa: 7.500.000đ; Nguyễn Bá Long, sinh năm 1988; HKTT: thôn TP, xã CB, huyện CL, tỉnh Khánh Hòa: 25.000.000đ.

Hiện các đối tượng: Nguyễn Đức Duy đã chết; còn Nguyễn Thị Trúc Quy, Phan Xa, Dương Trúc Phương, Phạm Thị Viên, La Ngọc Trung, Mai Thị Lâm Tuyền, Hồ Quốc Nam, Nguyễn Thị Hiền Thê, Nguyễn Thị Thu Thảo, Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Bá Long, qua xác minh đã bỏ địa phương đi đâu không rõ. Cơ quan điều tra sẽ chuyển hồ sơ, tài liệu đến Cơ quan điều tra nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của các đối tượng để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Tang vật thu giữ gồm: 03 bịch ma túy đá; 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 02 đoạn ống hút nhựa màu trắng trong suốt, được hàn kín một đầu, một đầu cắt nhọn dài 15cm; 01 cây kéo bằng kim loại, dài 20cm, mũi kéo dài nhọn khoảng 5cm; 01 cây kéo bằng kim loại, dài 10cm, mũi kéo dài nhọn khoảng 3cm; 02 cân tiểu ly màu trắng bạc; 01 cân tiểu ly màu đen; 39 đoạn ống thủy tinh trong suốt, dài 25cm; 03 đoạn ống hút nhựa màu trắng tím; 06 đoạn ống hút nhựa trong suốt; 01 két sắt hiệu Satu; 01 bình nhựa màu trắng cam, bên trong có chứa cà phê; 01 điện thoại hiệu Sam sung; 01 ngôi nhà tại Khu phố 06, phước Mỹ, Phan Rang Tháp Chàm đang được niêm phong; 01 xe ô tô biển số 79A-17879; các giấy tờ về xe ôtô như Hợp đồng bán hàng số: CT 17983, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang tên Nguyễn Ngọc L (bản phôtôcoppy); Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp xe ô tô số: LN 1803160560507 và một số giấy tờ có liên quan.

Trong quá trình khám xét khẩn cấp nhà của Nguyễn Ngọc L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố P đã thu giữ một số tài sản nhưng không lập biên bản, gồm những tài sản sau: 01 (một) xe ô tô 04 chỗ ngồi màu đen, hiệu Chevrolet Cruze, biển số 79A-17879; Số tiền 15.500.000đ; 97 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000đ; 01 mặt dây chuyền bằng kim loại màu bạc có đính đá màu trắng; 01 đôi bông tai bằng kim loại màu bạc có đính đá màu trắng; 01 dây chuyền bằng kim loại màu vàng có mặt dây chuyền bằng kim loại màu vàng và có hình phật di lặc màu xanh; 09 miếng kim loại màu vàng, bên trên mỗi miếng kim loại có in dòng chữ: SAIGON JEVELRY COMPANY SJC, Rồng vàng 9999 Fine gold, Công ty vàng bạc đá quý 37,5 gram (1 lượng); 05 nhẫn kim loại màu vàng; 02 thỏi kim loại màu vàng; 02 nhẫn kim loại màu vàng có đính đá.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS-P2 ngày 20/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2020/HS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận quyết định:

* Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” * Áp dụng: điểm b khoản 4 Điều 251, điểm b, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự (BLHS);

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Ngọc L 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày tạm giữ: 22/12/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23/9/2020, bị cáo Nguyễn Ngọc L có đơn kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Ngọc L kháng cáo cho rằng bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là oan. Vì số ma túy bị thu giữ khi khám xét nhà của bị cáo do bị cáo mua để sử dụng; còn số ma túy mà cơ quan Công an truy xét bị cáo không biết và không bán cho ai; cơ quan điều tra cũng không bắt được quả tang bị cáo mua bán ma túy.

Người bào chữa cho bị cáo - Luật sư Hứa Thanh K phát biểu ý kiến: Bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo L tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm đều hợp pháp. Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, có căn cứ và đúng pháp luật. Tại phiê n tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo kêu oan nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an tỉnh Ninh Thuận, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc L chỉ thừa nhận mua 110,5076gam của một thanh niên tên Tú ở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) với giá 20.000.000đ để sử dụng và không có mua bán ma túy với người nào khác; số ma túy 257,5 gam cơ quan Công an truy xét bị cáo không biết và cũng không có mua bán với ai. Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

Từ năm 2017 đến ngày 22/12/2018, Nguyễn Ngọc L đã mua ma túy của các đối tượng tại Thành phố Hồ Chí Minh sau đó đưa về các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh Hòa bán lại cho nhiều đối tượng khác để kiếm lời và sử dụng. L đã thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy với tổng khối lượng 368,0076gam. Trong đó thu giữ tại nơi ở của L là: 110,5076gam. Tại Kết luận giám định số: 607/C09B ngày 25/12/2018 của Phân viện Khoa học Hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an xác định: số ma túy thu giữ tại nhà Nguyễn Ngọc L là ma túy đá loại Methamphetamine. Ngoài ra, Nguyễn Ngọc L còn bán số ma túy có khối lượng 257,5 gam, với số tiền 150.200.000đ cho các đối tượng nghiện ma túy. Cụ thể: đã bán cho Nguyễn Thành NLC6 09 lần, 105 gam với số tiền là 63.000.000đ; Lưu Minh NLC5 06 lần, 50 gam với số tiền là 30.000.000đ; Nguyễn Văn NLC10 02 lần, 90 gam với số tiền là 45.000.000đ;

Nguyễn Thị NLC9 02 lần, 10 gam với số tiền là 6.000.000đ; Nguyễn Văn Thế 05 lần, 2,5 gam với số tiền là 4.000.000đ. Ngoài ra L đã bán cho Nguyễn Văn Thế 01 bịch ma túy (không xác định được khối lượng) với số tiền 700.000đ và Kiều Văn NLC11 03 lần 03 tép với số tiền là 1.500.000đ.

[3] Trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra đến xét xử phúc thẩm tại phiên tòa hôm nay, bị cáo L đều không thừa nhận hành vi phạm tội, cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi mua bán ma túy. Xét, Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo mua bán ma túy với tổng khối lượng là 368,0076gam, trong đó thu giữ tại nơi ở của bị cáo L là: 110,5076 gam và số ma túy phát hiện bị cáo đã bán cho các đối tượng nghiện ma túy trong quá trình điều tra mở rộng vụ án là 257,5 gam.

[3.1] Đối với số ma túy 110,5076 gam thu giữ tại nhà của bị cáo L: Bị cáo chỉ thừa nhận mua số ma túy này để sử dụng. Tuy nhiên, tại bản khai ngày 27/12/2018 (BL 316), bị cáo khai không biết nguồn gốc số ma túy bị thu giữ tại nhà do đâu mà có. Quá trình điều tra sau đó, bị cáo thay đổi lời khai xác định số ma túy này mua của một thanh niên tên Tú (không rõ lai lịch) ở Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng. Như vậy, lời khai của bị cáo về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ tại nhà là mâu thuẫn, bất nhất. Mặt khác, căn cứ vào Biên bản khám xét thể hiện số lượng ma túy bị thu giữ tại nhà bị cáo rất lớn và có một số vật dụng dùng trong việc bán ma túy như: Cân tiểu ly, ống thủy tinh, đoạn ống nhựa được cắt nhọn một đầu dùng để xúc ma túy, kéo cắt. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo L tàng trữ số ma túy trên nhằm mục đích để bán là có căn cứ; nội dung khai báo chối tội của Nguyễn Ngọc L trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa là không có cơ sở để chấp nhận.

[3.2] Đối với số ma túy 257,5g quy kết bị cáo L có hành vi mua bán khi điều tra mở rộng: các đối tượng đã mua bán, sử dụng hết số ma túy này trước đó, không thu giữ được. Theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.4 mục I của Văn bản hợp nhất số 08/VBHN-BCA ngày 31/12/2015 của Bộ Công an hợp nhất hai Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 và Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về các tội phạm về ma túy quy định: “Trong trường hợp không thu giữ được vật chứng là ma túy nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy mà người phạm tội đã mua bán thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh và điều khoản tương ứng”.

Bị cáo L không thừa nhận việc mua bán khi điều tra mở rộng nhưng lời khai của các đối tượng mua bán ma túy với L phù hợp với tài liệu giao dịch chuyển khoản được thu thập và biên bản nhận dạng, trong khi bị cáo không lý giải được lý do các đối tượng này chuyển tiền cho bị cáo; khai nhận của bị cáo về mối quan hệ và các lần giao dịch chuyển tiền với các đối tượng này cũng mâu thuẫn, không thống nhất. Do vậy, căn cứ lời khai nhận mua ma túy của các đối tượng, lời khai của người làm chứng, số tiền chuyển qua tài khoản ngân hàng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thu thập, thẩm tra, làm rõ theo đúng quy định pháp luật, có đủ cơ sở xác định Nguyễn Ngọc L đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, nhiều lần với số lượng ma túy là 257,5g.

[3.3] Do đó, Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo L phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng ma túy mua bán là 368,0076 gam là có cơ sở.

[4] Từ những phân tích trên, Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc L kháng cáo kêu oan nhưng không cung cấp được chứng cứ, tình tiết nào mới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có cơ sở chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu theo quy định về án phí lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc L.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2020/HS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

* Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

* Áp dụng: điểm b khoản 4 Điều 251, điểm b, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Ngọc L 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày tạm giữ: 22/12/2018.

Tiếp tục giam bị cáo Nguyễn Ngọc L để đảm bảo thi hành án.

[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2021/HS-PT ngày 13/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về