Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 31/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 185/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1996 (Có mặt) HKTT: Xóm ĐL, xã TL, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên Nơi ở hiện tại: Xóm BT, xã BĐ, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên

- Bị đơn: Anh Lục Văn Q, sinh năm 1994 (Vắng mặt tại phiên tòa) Nơi cư trú cuối cùng: Xóm ĐL, xã TL, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai, cùng các tài liệu, giấy tờ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày:

Chị và anh Lục Văn Q kết hôn năm 2015, có đăng ký lết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã TL, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm ĐL, xã TL, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên được khoảng 4 tháng. Trong thời gian đó, tình cảm vợ chồng hạnh phúc. Khoảng tháng 2 năm 2016 anh Q đi làm ăn xa, nói rằng vào Đồng Nai hoặc Bình Dương, chị không rõ là tỉnh nào. Sau khi anh Q đi vài tuần thì ông Lục Văn T là anh trai ruột của bố anh Q cũng đi vào đó và có thông tin về là 2 người làm cùng xưởng. Sau 2-3 tháng, ông T về nhưng gia đình không thấy anh Q về, cũng không liên lạc với vợ. Sau đó chị sinh con và về nhà bố mẹ đẻ ở PB ở. Kể từ đó đến nay anh Q không liên lạc gì với chị và gia đình nữa. Gia đình đã đăng tin lên Facebook, báo chính quyền địa phương, nhờ họ hàng bên chồng đi dò la tìm kiếm thông tin nhưng không được, không thấy anh Q ở đâu. Từ năm 2017 gia đình mất hẳn thông tin về anh Q, không ai biết anh Q ở đâu, làm gì, còn sống hay đã chết. Vì vậy, chị đã làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ tuyên bố anh Lục Văn Q mất tích. Tháng 8 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Đ đã ban hành quyết định số 03/2020/QĐST- VDS ngày 07/8/2020 tuyên bố anh Q mất tích. Nay, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung là Lục Trí M, sinh ngày 04/8/2016, hiện đang sống cùng với chị. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lục Văn Q vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không có lời khai. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai đầy đủ các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Lục Văn Q, đồng thời tiến hành xác minh thông tin về anh Q và tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị L, anh Q trong thời gian chung sống tại địa phương, bà Hoàng Thị C – mẹ đẻ của anh Q cho biết: Vợ chồng chị L anh Q kết hôn năm 2015 và chung sống đến tháng 2 năm 2016 thì anh Q đi làm ăn xa, từ đó không về nhà lần nào nữa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều: 21, 28, 35, 147, 174, 175, 177, 179, 220 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều: 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị L, cho chị L được ly hôn anh Q. Về con chung: Giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Q vì chị L không yêu cầu. Tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết. Án phí:

Chị L được miễn án phí hôn nhân gia đình vì là cá nhân thuộc diện hộ nghèo.

[1]. Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Trần Thị L với bị đơn anh Lục Văn Q. Trong vụ án này, bị đơn có nơi cư trú cuối cùng tại xóm ĐL, xã TL, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, căn cứ Quyết định số 03/2020/QĐST -VDS ngày 07/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ về việc tuyên bố anh Lục Văn Q mất tích, căn cứ kết quả xác minh thông tin về bị đơn anh Lục Văn Q tại thời điểm giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại địa phương nơi cư trú cuối cùng của anh Q và tại trụ sở Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, b ị đơn anh Lục Văn Q vắng mặt nên không có lời khai và Tòa án không tiến hành hòa giải được. T ại phiên tòa lần thứ hai, anh Q vẫn vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Lục Văn Q.

[2.] Về nội dung: Chị Trần Thị L và anh Lục Văn Q kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại  Ủy ban nhân dân xã TL, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên năm 2015 nên là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Về tình trạng hôn nhân, căn cứ lời khai của nguyên đơn chị Trần Thị L, căn cứ biên bản xác minh của Tòa án tại gia đình thân nhân của anh Q, có cơ sở xác định, vợ chồng chị L, anh Q đã chung sống hạnh phúc trong thời gian đầu. Đến tháng 2 năm 2016 thì anh Q đã đi làm xa và biệt tích cho đến nay. Ngày 07/8/2020, anh Q đã bị Tòa án nhân dân huyện Đ tuyên bố mất tích.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, “Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”. Do vậy, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Trần Thị L, cho chị L được ly hôn anh Q.

Về con chung: Vợ chồng chị L, anh Q có 01 con chung là Lục Trí M, sinh ngày 04/8/2016. Hiện tại con chung của chị L và anh Q đang ở với mẹ. Chị L có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng. Anh Q vắng mặt, không có lời khai nên không có căn cứ xem xét quyền nuôi con cho anh Q. Do vậy, xét yêu cầu xin nuôi con của chị L là có căn cứ nên cần được chấp nhận. Giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Q vì chị L không yêu cầu. Anh Q có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, sau khi ly hôn, các đương sự có quyền thỏa thuận hoặc có quyền khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc về việc cấp dưỡng nuôi con nếu thấy cần thiết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung. Bị đơn anh Q vắng mặt, không có lời khai nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

Về án phí: Chị L là cá nhân thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí nên căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử miễn án phí cho chị L.

Xét quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận .

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng  khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 56, các điều: 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của chị Trần Thị L đối với anh Lục Văn Q.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L được ly hôn anh Lục Văn Q.

2. Về con chung: Chị Trần Thị L và anh Lục Văn Q có 01 con chung là Lục Trí M, sinh ngày 04/8/2016. Giao con chung Lục Trí M cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Lục Văn Q vì chị Trần Thị L chưa có yêu cầu. Anh Lục Văn Q có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết

4. Án phí: Chị Trần Thị L được miễn án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm Chị Trần Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lục Văn Q có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:31/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về