Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 31/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 308/2020/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Thạch Thị Đ, sinh năm 1968 (có mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã Â, huyện K, tỉnh Trà Vinh

2. Bị đơn: Ông Ngô Văn N, sinh năm 1966 (có mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã Â, huyện K, tỉnh Trà Vinh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 10 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Thạch Thị Đ trình bày:

Bà và ông Ngô Văn N chung sống với nhau vào năm 1988 và không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình chung sống bà và ông N có 02 con chung tên Ngô Thị Huyền T, sinh năm 1989 và Ngô Thị Huyền T, sinh năm 1991, hiện các con chung đã trưởng thành.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, chung sống không còn hạnh phúc. Bà và ông N đã không chung sống với nhau từ cuối năm 2019 cho đến nay.

Nay xét thấy không còn tình cảm với ông N nên bà yêu cầu ly hôn với ông N.

Về con chung: Các con chung đã trưởng thành nên bà Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà và ông N không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Ngô Văn N là bị đơn trình bày: Ông và bà Đ chung sống với nhau vào năm 1988, không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Ông cũng thống nhất với lời trình bày của bà Đ về con chung, về mâu thuẫn giữa ông và bà Đ trong quá trình chung sống, về thời gian hai người không còn chung sống với nhau.

Nay bà Thạch Thị Đ yêu cầu ly hôn với ông thì ông cũng đồng ý ly hôn với bà Đ.

Về con chung: Các con chung đã trưởng thành nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông và bà Đ không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè phát biểu quan điểm:

Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Các đương sự từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N là vợ chồng; về con chung đã trưởng thành nên đề nghị không xem xét giải quyết; về tài sản chung đương sự không yêu cầu nên đề nghị không xem xét giải quyết; về nợ chung bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N khai không có nên đề nghị không xem xét giải quyết.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý về án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về hôn nhân: Bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N đều thừa nhận chung sống với nhau vào năm 1988 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, Ủy ban nhân dân xã Â, huyện K cũng xác nhận bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N là do bất đồng quan điểm, chung sống không còn hạnh phúc nên hai người đã không còn chung sống với nhau từ cuối năm 2019 cho đến nay.

[2] Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N là trầm trọng và thực tế hai người đã không còn sống chung với nhau từ năm 2019 cho đến nay. Bà Đ yêu cầu ly hôn với ông N, ông N cũng đồng ý ly hôn với bà Đ. Do bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N chung sống với nhau vào năm 1988 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên căn cứ vào khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình, bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N không được công nhận là vợ chồng.

[3] Về con chung: Bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N thống nhất các con chung đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N thống nhất khai không có nợ chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Thạch Thị Đ phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Tòa án nên được chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 51, khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không công nhận bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N là vợ chồng.

Về con chung: Bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N thống nhất các con chung đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N không yêu cầu giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà Thạch Thị Đ và ông Ngô Văn N khai không có, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Thạch Thị Đ phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004857 ngày 09 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cầu Kè. Bà Thạch Thị Đ đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:31/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về