Bản án 31/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HỒNG LĨNH - TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 31/2019/HSST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 32/2019/HSST, ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Phạm Văn N; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 05/12/1993 tại xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Xóm 10, xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông: Không xác định được và bà: Phạm Thị D; Vợ: Vy Thị Hồng T; Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án: Có 01 tiền án: Tại bản án số 207/HSST ngày 13/6/2017, Phạm Văn N bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù và phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đã chấp hành xong bản án, đến nay chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Có 01 tiền sự: Ngày 12/4/2019, Phạm Văn N bị Công an xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, đến ngày 09/5/2019 đã chấp hành xong.

Nhân thân: Tại bản án số 478/HSST ngày 15/11/2011, Phạm Văn N bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, nay đã được xoá án tích.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/10/2019 đến ngày 15/12/2019 tại xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1987; trú tại: Xóm 9, xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1992; trú tại: Xóm 10, xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Vắng mặt.

3. Anh Phạm Văn T1, sinh năm 1990; trú tại: Xóm 10, xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982; trú tại: Xóm 10, xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1975; trú tại: Tổ dân phố 8, phường U, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

- Người chứng kiến:

1. Chị Phan Thị Công G, sinh năm: 1986; trú tại: Tổ dân phố 3, phường M, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Văn M2, sinh năm: 1956; trú tại: Tổ dân phố 10, phường O, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

3. Ông Bùi Thanh E, sinh năm: 1963; trú tại: Tổ dân phố 4, phường U, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Sáng ngày 23/9/2019, Phạm Văn N, Nguyễn Văn A, Phạm Văn T1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn T đều trú tại xã K, thành phố B, tỉnh Nghệ An cùng một số người khác được thuê bốc mộ tại khu vực gần đường tránh Quốc lộ 1 - BOT thuộc tổ dân phố 8, phường U, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh. Khoảng 14 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn A đi mua một bộ bài Tulơkhơ 52 quân và cùng một số công nhân đánh bài vui tại lán công nhân. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, việc bốc mộ bị đình chỉ nên một số công nhân ra về còn lại A, N, T1, C và T. A nói: Ta làm hồi ba cây cho vui (ý rủ mọi người đánh bài bằng hình thức đánh ba cây được thua bằng tiền). N, T, T1, C đều đồng ý và thống nhất mỗi ván đặt cược số tiền 10.000 đồng với người cầm cái (chương). Cả năm người ngồi hình tròn tính từ bên phải N theo thứ tự C, T1, A và T. N lấy bộ bài Tulơkhơ 52 quân, bỏ ra các quân bài 10, J, Q, K chia bài và cùng nhau đánh bạc. Đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày các đối tượng đang đánh bạc thì bị Công an phường U, thị xã H, Hà Tĩnh phát hiện lập biên bản sự việc, thu giữ tại chiếu bạc số tiền là 230.000 đồng và một bộ bài Tulơkhơ 52 quân, ngoài ra thu giữ trên người của Nguyễn Văn C số tiền 200.000 đồng, Nguyễn Văn A số tiền 670.000 đồng, Phạm Văn N số tiền 605.000 đồng, Phạm Văn T1 số tiền 90.000 đồng. Riêng Nguyễn Văn T bỏ chạy, đến khoảng 18 giờ cùng ngày T đến Công an phường U, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh khai nhận hành vi của mình cùng đồng phạm có hành vi đánh bạc nêu trên.

Về hình thức đánh bạc cụ thể như sau: Khi bắt đầu đánh mỗi người phải đặt cược 10.000 đồng với người cầm cái không đặt cược với nhau. Sử dụng một bộ bài Tulơkhơ 36 quân (Đã bỏ các quân bài 10, J, Q, K), chia cho mỗi người 03 quân bài, quy định số trên các quân bài tương ứng với điểm của quân bài đó, quân bài A (át) tính là 1 điểm, thứ tự chất bài lớn dần là bích, chuồn, cơ và rô. Sau khi xem bài, mỗi người chơi sẽ so sánh bài của mình với người cầm cái, để xác định thắng thua có các hình thức tính: “Điểm”, “Sáp”, “Fily”. Cụ thể: Tính điểm là người chơi cộng điểm ba quân bài của mình lại để biết được tổng số điểm, nếu lớn hơn 10 điểm thì chỉ lấy điểm của hàng đơn vị, 20 điểm được xem là 10 điểm; 10 điểm là cao nhất. Trường hợp bằng điểm nhau thì xét chất bài trước, số của quân bài sau. “Sáp” là người chơi có ba quân bài cùng một số, “Sáp” A (át) lớn nhất, “Sáp” 2 nhỏ nhất. “Fily” là có ba quân bài kế tiếp nhau cùng chất, “Fily” 7, 8, 9 rô lớn nhất; “Fily” 2, 3, 4 bích nhỏ nhất. Nếu cùng “Fily” thì xét chất bài như tính điểm. Trong các hình thức phân định thắng thua nêu trên “Fily” là lớn nhất, nhỏ dần là “Sáp”, cuối cùng là tính “Điểm”. Khi đã phân định thắng thua mọi người so sánh với người cầm cái, nếu lớn điểm hơn người cầm cái thì người đó thắng và ngược lại. Ai có bài 10 điểm sẽ được cầm cái ván tiếp theo nhưng không được nhận tiền thắng ván bài đó. Người cầm cái có bài 10 điểm thì vẫn được nhận tiền thắng ván bạc đó và tiếp tục cầm cái. Người có bài 10 điểm nhưng thua “Fily” hoặc “Sáp” thì vẫn mất tiền thua ván bạc đó nhưng được cầm cái ván tiếp theo. Tổng số tiền đặt cược mỗi ván bạc là 40.000 đồng, người cầm cái thắng hoặc thua nhiều nhất mỗi ván là 40.000 đồng, mỗi người chơi khác thắng hoặc thua nhiều nhất mỗi ván là 10.000 đồng.

Quá trình điều tra đã chứng minh làm rõ : Phạm Văn N có 655.000 đông, Nguyễn Văn A có 720.000 đồng, Phạm Văn T1 có 180.000 đồng, Nguyễn Văn C có 230.000 đồng, Nguyễn Văn T có 10.000 đồng đều sử dụng vào việc đánh bạc. Tổng số tiền các đối tượng dùng đánh bạc là 1.795.000 đồng.

Các đối tượng nêu trên đánh bạc dưới 5.000.000 đồng nhưng Phạm Văn N đang có tiền sự về hành vi đánh bạc nên Phạm Văn N phải chịu trách nhiệm hình sự.

Bản cáo trạng số 31/CT-VKS-TXHL ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn N từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tài sản có giá trị nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung.

* Về vật chứng:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự đề nghị xử:

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.795.000 đồng, là số tiền của các đối tượng dùng để đánh bạc đã thu giữ trong vụ án.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, đã qua sử dụng của Nguyễn Văn A mua để sử dụng làm phương tiện, công cụ đanh bạc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Cơ quan điều tra Công an, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, Kiểm sát viên thu thập đều hợp pháp. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến và khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là: Trong khoảng thời gian từ 15 giờ đến 15 giờ 45 phút, ngày 23/9/2019, tại lán công nhân bốc mộ thuộc tổ dân phố 8, phường U, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh, Phạm Văn N đã có hành vi đánh bạc cùng Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn T và Phạm Văn T1 theo hình thức đánh bài “ba cây” ăn thua bằng tiền với mức sát phạt mỗi ván 40.000 đồng. Trong đó bị cáo Phạm Văn N đã sử dụng 655.000 đồng vào việc đánh bạc, Nguyễn Văn A 720.000 đồng, Phạm Văn T1 180.000 đồng, Nguyễn Văn C 230.000 đồng, Nguyễn Văn T 10.000 đồng. Trong lúc bị cáo và các đối tượng đang đánh bạc thì bị Công an phát hiện lập biên bản sự việc và thu giữ tổng số tiền sử dụng vào đánh bạc là 1.795.000 đồng.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản sự việc và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận tổng số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc là 1.795.000 đồng, trong đó bị cáo Phạm Văn N đã sử dụng số tiền 655.000 đồng vào việc đánh bạc. Tuy tang số đánh bạc của bị cáo thấp hơn mức phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo đang có tiền sự về hành vi đánh bạc nên bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là hoàn toàn chính xác, đúng người, đúng tội, không có gì oan sai.

[4] Hội đồng xét xử thấy với động cơ vụ lợi nên bị cáo đã đánh bạc nhằm mục đích tước đoạt tiền bạc của nhau, không chỉ xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, gây bức xúc cho bà con nhân dân. Bị cáo là người có nhân thân xấu và 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, hôm nay cần đưa bị cáo ra xét xử nhằm lên một mức án tương xứng với hành vi, hậu quả mà bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên cũng cần xét cho bị cáo tại phiên tòa khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Trên cơ sở phân tích đánh giá đến tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo mức án như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ, đúng pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[7] Trong vụ án này có các đối tượng Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn T và Phạm Văn T1 đều là người thực hiện hành vi đánh bạc cùng với bị cáo Phạm Văn N trong ngày 23/9/2019 nhưng không đu tang số để truy cứu trách nhiệm hình sự và tại thời điểm đánh bạc các đối tượng trên không có tiền án, tiền sự về hành vi Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc, Gá bạc nên không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cơ quan Công an thị xã Hồng Lĩnh đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với các đối tượng nói trên là đúng pháp luật nên miễn xét.

* Vật chứng vụ án:

[8] 01 bộ bài tu lơ khơ 52 quân là công cụ phạm tội không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy, còn số tiền 1.795.000 đồng mà bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

` * Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Phạm Văn N 07 (bảy) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.795.000 đồng (một triệu bảy trăm chín mươi lăm ngàn đồng) mà bị cáo và các đối tượng dùng để đánh bạc đã bị thu giữ trong vụ án.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, là phương tiện, công cụ dùng để đanh bạc.

(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử buộc: Bị cáo Phạm Văn N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:31/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về