Bản án 31/2019/HS-ST ngày 05/07/2019 về tội tàng trữ hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 05/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 05 tháng 7 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2019/HSST, ngày 17 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét sử số 33/2019/QĐXXST-HS, ngày 24/6/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn B; Sinh năm: 1966, tại: huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Trần Văn T, sinh năm 1924 và con bà Đào Thị X (đã chết); Bị cáo có vợ là Đào Thị H, sinh năm 1964 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ nhất sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/01/2019 - có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đào Thị H, sinh năm 1964

Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.- Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 21/01/2019, Trần Văn B mang 30 quả pháo trứng ra trước nhà tại thôn A xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để chuẩn bị đốt thì bị lực lượng Công an huyện Krông Pắc phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật. Quá trình làm việc Trần Văn B tự nguyện giao nộp thêm 811 quả pháo trứng cất dấu sau chuồng heo của gia đình.

Quá trình điều tra Trần Văn B khai vào tháng 11/2018, khi đi xe khách tuyến Bắc-Nam đã gặp một người đàn ông (chưa rõ nhân thân lai lịch) hỏi có nhu cầu mua pháo thì bán giá 20.000 đồng/01 quả, B đồng ý. Đến tháng 01/2019 (B không nhớ rõ ngày), người đàn ông trên mang đến nhà bán cho B một thùng xốp màu trắng bên trong chứa 841 quả pháo trứng. B hỏi người này sao đưa nhiều vì chỉ muốn mua 100 quả đốt trong dịp tết nguyên đán năm 2019, thì người này nói cứ đưa trước 2.000.000 đồng rồi lấy pháo sử dụng, số còn lại gửi nhà B sau này quay lại lấy nên B đưa 2.000.000 đồng rồi đem pháo trên đi cất giấu ở chuồng heo của gia đình.

Bản kết luận giám định số 1081/C09B ngày 25/01/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: 841 vật hình bóng điện tròn dài 6,5cm, đầu hình cầu có đường kính 4cm bọc giấy, đầu hình trụ có đường kính 2,5cm, dài 2,5cm được liên kết với một sợi dây màu xanh gửi giám định đều là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng 31,4kg.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐG ngày 03/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông Pắc đã kết luận: Đất và góc chuồng heo nơi Trần Văn B sử dụng để tàng trữ pháo có trị giá 2.760.000 đồng, quá trình điều tra đã xác định được đây là tài sản chung của bị cáo Trần Văn B và vợ là bà Đào Thị H.

Cáo trạng số 40/CT-VKS-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc truy tố bị cáo Trần Văn B về tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Trần Văn B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn B như ban cao trang số 40/CT-VKS-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn B phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn B mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điêu 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điêu 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với địa điểm tàng trữ pháo thuộc đất và góc chuồng heo có trị giá 2.760.000 đồng, quá trình điều tra đã xác định được đây là tài sản chung của Trần Văn B và bà Đào Thị H, bị cáo dùng để tàng trữ pháo, bà H không biết, đề nghị HĐXX tịch thu ½ giá trị bằng tiền cụ thể: 2.760.000 đồng : 2 =1.380.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

Đối với 835 (tám trăm ba mươi lăm) vật có dạng bóng đèn điện tròn, nữa hình trụ tròn đường kính khoảng 2,5 cm, cao khoảng 2,5 cm, nữa hình cầu vỏ nhựa bao giấy bên ngoài đường kính khoảng 04cm, còn lại sau giám định có đặc tính như pháo nổ, đề nghị HĐXX tịch thu tiêu huỷ.

Đối với người đàn ông bán pháo cho Trần Văn B, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục xác minh xử lý.

Đối với bà Đào Thị H là đồng sở hữu thửa đất mà bị cáo Trần Văn B sử dụng làm địa điểm tàng trữ pháo, bà H không biết về hành vi trên của B, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc không đề nghị xử lý đối với bà Đào Thị H là phù hợp.

Bị cáo Trần Văn B không có ý kiến tranh luận với quan điểm của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo để ở nhà với gia đình và đi chữa bệnh hiểm nghèo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố thì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có lưu trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn thưc tê khách quan. Như vậy, đủ căn cứ kết luận: Vào tháng 01 năm 2019, tại thôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Trần Văn B đã tàng trữ 31,4 kg pháo (có đầy đủ đặc tính của pháo nổ), đã phạm vào tội “Tàng trữ hàng cấm”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

..........................................................

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam.”

Vận dụng điều luật nêu trên đối chiếu với hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX xét thấy cần áp dụng mức hình phạt sao cho thỏa đáng để vừa đề cao được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời qua đó giáo dục riêng, răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Xét hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đên chính sách quản lý pháo nổ của nhà nước , ngoài ra hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Về ý thức: Bị cáo là ngườicó đầy đủ kha năng nhân thưc đươc hanh vi cua minh là vi phạm pháp luật, bị cáo nhận thức được pháo nổ là nguyên nhân dẫn đến những tai nạn thương tâm, nhiều người đã mang những thương tật suốt đời, thậm chí có người còn bỏ mạng vì tai nạn do pháo nổ gây ra. Do đó, việc tàng trữ pháo nổ bị pháp luật nghiêm cấm, mọi hành vi tàng trữ pháo nổ trái phép sẽ bị pháp luật trừng trị. Mặc dù nhận thức được điều đó, xong xuất pháp từ ý thức coi thường pháp luật, coi thường sự quản lý về chất nổ của nhà nước, nên vào tháng 01 năm 2019, bị cáo Trần Văn B đã có hành vi tàng trữ 31,4 kg pháo nổ để sử dụng trong dịp tết. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm, tự động giao nộp 811 quả pháo để phục vụ việc điều tra, bị cáo có bố là ông Trần Văn T là người có công với cách mạng được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất, bị cáo bị bệnh hiểm nghèo đột quỵ, liệt nửa người đi lại khó khăn, đang phải điều trị. Do đó cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng nhân đạo của pháp luật. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, nên HĐXX áp dụng khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 BLHS, cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng để răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với địa điểm tàng trữ pháo thuộc đất và góc chuồng heo có trị giá 2.760.000 đồng, đây là tài sản chung của Trần Văn B và bà Đào Thị H, bị cáo dùng để tàng trữ pháo bà H không biết, cần tịch thu ½ giá trị bằng tiền cụ thể: 2.760.000 đồng : 2 =1.380.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

Đối với 835 (tám trăm ba mươi lăm) vật có dạng bóng đèn điện tròn, nữa hình trụ tròn đường kính khoảng 2,5 cm, cao khoảng 2,5 cm, nữa hình cầu vỏ nhựa bao giấy bên ngoài đường kính khoảng 04cm, còn lại sau giám định có đặc tính như pháo nổ, cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Đối với người đàn ông đã bán pháo nổ cho bị cáo, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

[6] Đối với bà Đào Thị H là đồng sở hữu thửa đất mà bị cáo Trần Văn B sử dụng làm địa điểm tàng trữ pháo. Tuy nhiên bà H không biết về hành vi trên của bị cáo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc không đề nghị xử lý đối với bà Đào Thị H là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Đại diện VKSND huyện Krông Pắc thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị mức hình phạt, xử lý vật chứng đối với bị cáo. HĐXX xét thấy phù hợp nên cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn B phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Văn B cho chính quyền xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm kêt hơp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được cho hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.

Về xử lý vật chứng của vụ án:

Buộc bị cáo Trần Văn B nộp ngân sách nhà nước 1.380.000 đồng (một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng) là giá trị ½ diện tích đất và góc chuồng heo bị cáo Trần Văn B dùng để tàng trữ pháo nổ.

Tịch thu tiêu hủy: 835 (tám trăm ba mươi lăm) vật có dạng bóng đèn điện tròn, nữa hình trụ tròn đường kính khoảng 2,5 cm, cao khoảng 2,5 cm, nữa hình cầu vỏ nhựa bao giấy bên ngoài đường kính khoảng 4cm. Tất cả được niêm phong trong thùng xốp bằng dấu tròn của phân viện khoa học hình sự (C09B) có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/6/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc và Chi cục thi hành án dân sự huyện K.

Về án phí: Bị cáo Trần Văn B phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà đươc quy ền kháng cáo bản án trong hạn luật định 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điểu 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 05/07/2019 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:05/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về