Bản án 31/2019/HSPT ngày 27/02/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 31/2019/HSPT NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 27/02/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 01/TLPT-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Quang H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HSST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Hện VY, tỉnh Bắc Giang.

Bị cáo có kháng cáo: Vũ Quang H, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn CT, xã LM, Hện LN, tỉnh Bắc Giang.

Nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn C; con bà: Nguyễn Thị T; vợ: Nguyễn Thị N; con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: không.Bị cáo tại ngoại. (có mặt tại phiên tòa )

Ngoài ra trong vụ án còn có một số người có quyền L nghĩa vụ liên quan khác không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Quang H- sinh năm 1997 ở Thôn CT- xã LM- Hện LN- Bắc Giang có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 do sở giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang cấp ngày 03/12/2015. Chiều ngày 09/3/2017, H điều khiển xe mô tô BKS: 98E1- 366.23 của H chở sau xe là anh Nguyễn Văn L - sinh năm 1997 ở A- xã DT- T.P BG- tỉnh Bắc Giang (là bạn học) đi từ Khu công nghiệp YP- Bắc Ninh để về nhà. H điều khiển xe mô tô đi theo đường quốc lộ 18 rồi rẽ vào đường cao tốc Hà Nội- Bắc Giang hướng Bắc Ninh đi Bắc Giang và đi tại làn đường dành cho phương tiện dừng đỗ khẩn cấp. Khoảng 18 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô đi đến Km 123+ 420m thuộc địa phận xã TT- VY- Bắc Giang. Lúc này, có xe ô tô BKS 98D- 002.01 do anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1975, HKTT: PC – xã DT - TP.BG đang đỗ trong làn đường dành cho phương tiện dừng đỗ khẩn cấp do gặp sự cố tăng nhiệt độ bất thường hệ thống làm mát động cơ không thể tiếp tục lưu thông trên đường. Do thiếu chú ý quan sát và không làm chủ tay lái nên xe mô tô do H điều khiển đã va chạm với phần phía sau bên trái xe ô tô của anh N. Sau đó, H và anh L cùng ngã xuống mặt đường. Anh L ngã văng ra lề đường bên trái thì vừa lúc này có xe ô tô BKS 12C - 026.91 do anh Nguyễn Xuân T sinh năm 1981, HKTT: thôn TH- xã NT- Huyện HL- tỉnh Lạng Sơn điều khiển cùng chiều đi đến và bánh xe thứ 03 bên trái của xe ô tô anh T va chạm với anh L. Hậu quả, anh L tử vong tại Bệnh viện tỉnh Bắc Giang cùng ngày; H bị thương.

Sau khi nhận được tin báo về vụ tai nạn cơ quan điều tra Công an Huyện VY đã thành lập đoàn khám nghiệm tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn, khám nghiệm tử thi và tiến hành điều tra xác minh, kết quả như sau:

* Khám nghiệm hiện trường:

Đoạn đường xảy ra vụ tai nạn giao thông tại Km 123 + 420, đường cao tốc Hà Nội - Bắc Giang thuộc địa phận xã TT- VY- Bắc Giang. Đường được chia thành hai chiều đường xe chạy, mỗi chiều đường xe chạy rộng 11,4m bằng một dải phân cách cứng ở giữa rộng 9,0m. Mặt đường được trải nhựa thẳng, phẳng, mỗi chiều đường xe chạy được chia thành hai làn đường xe chạy, mỗi chiều làn đường rộng 3,60m bằng một vạch sơn kẻ đường đứt quãng màu trắng rộng 0,15m và một làn đường dừng khẩn cấp rộng 3,0m bằng một vạch sơn liền màu trắng rộng 0,20m. Trên đoạn đường xảy ra vụ tai nạn giao thông có cắm biển báo cấm xe mô tô và xe thô sơ. Hai bên đường là cánh đồng.

Phải, trái hiện trường vụ tai nạn giao thông được tính theo chiều từ Bắc Ninh đi Bắc Giang, lấy cột Km 123+400 ở bên phải đường làm mốc.

- (1) là vết trượt xước trên mặt đường nhựa KT (2,86 x 0,01)m. Đầu vết trượt xước cách mép đường nhựa bên phải 2,20m, cuối vết trượt xước nằm dưới vị trí đầu để chân trước bên trái của xe mô tô BKS 98E1 – 366.23 và cách mép đường nhựa bên phải là 4,10m.

Khoảng cách từ điểm đầu của vết trượt xước số (1) đến tâm của bãi đất vụn số

(2) trên mặt đường là 1,20m.

- (2) là bãi đất vụ trên mặt đường nhựa KT (1,0 x 0,70)m, tâm bãi đất vụn cách mép đường nhựa bên phải 2,30m.

Khoảng cách từ tâm bãi đất vụn số (2) đến tâm bãi mảnh nhựa vỡ số (3) là1,0m.

Khoảng cách từ tâm bãi đất vụn số (2) đến trục bánh xe phía sau bên trái củaxe ô tô BKS 98D- 002.01 là 2,30m

- (3) là bãi mảnh nhựa vỡ trên mặt đường nhựa KT (4,80 x 2,50)m, tâm bãi mảnh nhựa vỡ cách mép đường nhựa bên phải 2,80m. Khoảng cách từ tâm bãi mảnh nhựa vỡ số (3) đến trục bánh xe phía trước của xe mô tô BKS 98E1- 366.23 là 1,0m.

- (4) là xe mô tô BKS 98E1- 366.23 đổ nghiêng bên trái trên mặt đường nhựa. Đầu xe chếch hướng mép bên phải đường nhựa. Đuôi xe chếch hướng mép bên trái đường nhựa. Trục bánh xe phía trước cách mép bên phải đường nhựa 3,46m. Trục bánh xe phía sau cách mép bên phải đường nhựa 4,50m. Khoảng cách từ trục bánh xe phía trước của xe mô tô BKS 98E1- 366.23 đến trục bánh xe phía sau bên trái của xe ô tô BKS 98D- 002.01 là 1,67m.

Khoảng cách từ trục bánh xe phía sau của xe mô tô BKS 98E1 - 366.23 đến tâm bãi máu số (6) trên mặt đường nhựa là 7,60m.

- (5) là xe ô tô BKS 98D- 002.01 đang đỗ trên làn đường dừng khẩn cấp trên mặt đường. Đầu xe hướng Bắc Giang, đuôi xe hướng Bắc Ninh. Trục bánh xe phía trước bên phải cách mép đường nhựa bên phải 0,53m. Trục bánh xe phía sau bên phải cách mép đường nhựa bên phải 0,62m.

- (6) là bãi máu trên mặt đường nhựa KT (3,0 x 1,40)m, tâm bãi máu cách mép đường nhựa bên phải 10,50m.

- (7) là xe ô tô BKS 12C- 026.91 đang đỗ trên mặt đường nhựa. Đầu xe hướng Bắc Giang, đuôi xe hướng Bắc Ninh. Trục bánh xe phía trước bên phải cách mép đường nhựa bên phải 8,0m. Trục bánh xe phía sau thứ 04 bên phải cách mép đường nhựa bên phải 8,10m.

Khoảng cách từ trục bánh xe thứ 04 phía sau bên phải của xe ô tô 12C-026.91 đến trục bánh xe phía trước bên trái xe ô tô BKS 98D- 002.01 là 74,0m.

Khoảng cách 23,8m tính từ đầu vết trượt xước số (1) đến chân cột Km 123 +400 ở bên phải đường được xác định là mốc của hiện trường vụ tai nạn giao thông.

* Kết quả khám nghiệm phương tiện:

1-Xe ô tô BKS 98D- 002.01:

- Kính chắn gió phía sau bị tỳ nén, nứt vỡ KT (1,55 x 0,58)m.

- Góc bên trái cánh cửa phía sau bị tỳ nén, bẹp lõm để lại 02 vết rạn nứt sơn, mặt ngoài bám dính tạp chất màu đen. Vết thứ nhất KT (0,27 x 0,14)m, cách đất1,23m. Vết rạn nứt thứ hai KT (0,05 x 0,05)m, cách đất 0,78m.

- Đèn hậu phía sau bên trái bị tỳ nén, nứt vỡ.

- Hông xe phía sau bên trái bị tỳ nén, bép lõm hướng từ sau về trước KT (0,75x 0,05)m, cách đất 1,0m.

- Góc bên trái ba đờ sốc sau bị tỳ nén, nứt vỡ, bong sơn KT (0,70 x 0,40)m, cách đất 0,57m.

- Kính chắn gió sườn xe phía sau bên trái bị tỳ nén, nứt vỡ KT (1,05 x 0,42)m.

2-Xe mô tô BKS 98E1- 366.23:

- Ốp nhựa đầu xe bị tỳ nén, nứt vỡ, bật rời khớp nối.

- Tay phanh phía trước bên phải bị mài sát mòn kim loại, bám dính tạp chấtmàu xám KT (0,15 x 0,1)m.

- Cánh yếm bên phải bị tỳ nén, vỡ kHết bật rời khỏi xe KT (0,60 x 0,30)m.

- Cánh yến bên trái bị tỳ nén, nứt vỡ KT (0,10 x 0,01)m.

- Đầu bu chắn bùn trước bị tỳ nén vỡ kHết 1/2.

- Mặt ngoài bên phải ốp nhựa giảm sóc trước bên phải bị tỳ nén, mài sát, bám dính tạp chất màu đen KT (0,18 x 0,11)m.

- Mặt ngoài phía trước giảm sóc trước bên phải bị mài sát mòn sơn và kim loại KT (0,14 x 0,03)m.

- Vành bánh xe phía trước và nan hoa bị tỳ nén, đứt gãy.

- Lốp và săm bánh xe phía trước bị tỳ nén, bật rời khỏi vành.

- Đầu để chân trước bên trái bị mài sát, mòn cao su, hở lõi sắt KT (0,01 x 0,01)m.

- Mặt trước chân phanh bị tỳ nén, mài sát sạch bụi đất, bám dính tạp chất màu xám KT (0,11 x 0,04)m.

3- Xe ô tô BKS 12C- 026.91:

- Mặt trong chắn bùn phía sau bánh lốp thứ hai bên trái để lại vết bám dính tạp chất màu đen nghi máu KT (0,53 x 0,17)m.

- Mặt ngoài hai bình khí nén dưới ắc quy bên trái để lại vết bám dính tạp chất màu đen KT (0,44 x 0,23)m.

- Mặt trước thanh dọc đuôi khung bảo vệ sườn xe bên trái bám dính tạp chất màu đen KT (0,19 x 0,04)m.

- Khe giữa hai bánh lốp đôi của bánh lốp thứ ba bên trái bám dính tạp chất màu đen KT (0,60 x 0,20)m.

* Tại bản kết luận giám định số 578/KL-PC54 ngày 15 tháng 4 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Dấu vết mài sát, nứt vỡ, chùn cong sơn, nhựa, kim loại ở bánh trước, tay lái bên phải, giảm sóc trước bên phải của xe mô tô 98E1 – 366.23 được hình thành do va chạm với vị trí dấu vết mài sát, chùn cong, nứt vỡ sơn, nhựa, kim loại ở ba đờ sốc sau, sườn phía sau bên trái, đèn hậu bên trái của xe ô tô 98D – 002.01.

- Vị trí va chạm giữa xe ô tô 98D – 002.01 với xe mô tô 98E1 – 366.23 trên mặt đường ở phía trước điểm đầu dấu vết cày xước mặt đường ký hiệu số (1), thuộc phần đường dành cho phương tiện đi hướng Bắc Ninh – Bắc Giang.

- Dấu vết bám dính chất màu đen nghi máu ở khe giữa hai lốp trục bánh thứ ba bên trái của xe ô tô 12C – 026.91 với cơ thể nạn nhân L.

- Vị trí va chạm giữa xe ô tô 12C – 026.91 với cơ thể nạn nhân L trên mặt đường tại vị trí dấu vết máu, ký hiệu số (6), thuộc phần đường dành cho phương tiện đi hướng Bắc Ninh – Bắc Giang.

- Không phát hiện dấu vết va chạm giữa xe ô tô 12C – 026.91 với xe ô tô 98D– 002.01 và xe mô tô 98E1 – 366.23.

- Không đủ điều kiện để xác định tốc độ của các phương tiện khi xảy ra tai nạn.

4- Kết quả khám nghiệm tử thi:

* Khám ngoài:

- Tử thi nam giới, được xác định là Nguyễn Văn L, thể trạng trung bình,chiều dài đỉnh gót 171 cm.

- Mặc ngoài áo xanh xẫm. Trong mặc áo sơ mi vàng kẻ sọc. Trong cùng mặc áo phông cộc tay màu đen.

- Tử thi mềm lạnh. Da, niêm mạc nhợt nhạt. Vết hoen tử thi tập trung ở mặt sau cơ thể.

- Đầu: Tóc đen, cắt ngắn. Vùng trán phải có vết chợt da KT (03 x 02)cm. Trán trái có vết chợt da KT (4,5 x 1,5)cm.

- Mặt: Mắt nhắm tự nhiên, đồng tử giãn. Mũi, miệng, tai khô. Gò má phải và đuôi mắt phải có vết chợt da diện rộng KT (08 x 04)cm.

- Cổ: Chắc, không thấy dấu vết thương tích.

- Vùng ngực, bụng, lưng, mông: Vai trái có vết chợt da nông KT (2,5 x 1,5)cm. Vùng mạc sườn trái có vết chợt da KT (15 x 08)cm. Vỡ hoàn toàn xương chậu.

- Chân phải: Mặt sau ngoài đùi phải có vết mài, chợt da diện rộng KT (60 x 20)cm. Mặt trước trong đùi phải có vết mài, chợt da trên diện rộng KT (30 x 17)cm. Kheo chân phải có vết chợt da KT (14 x 10)cm. Dưới gối phải có vết chợt KT (03 x 03)cm. Gãy 1/3 trên và 1/3 giữa hai xương cẳng chân phải. Mu chân phải có 06 vết chợt da vết lớn nhất KT (3,5 x 02)cm và vết nhỏ nhất KT (01 x 0,5)cm.

- Chân trái: Vùng đùi trái có vết thương rách lóc da KT (60 x 30)cm. Dập nát toàn bộ tổ chức cơ đùi trái và gối trái. Dập nát động mạch, tĩnh mạch đùi trái. Gãy cổ xương đùi trái. Trật khớp gối trái.

- Bộ phận sinh dục ngoài: Dập nát toàn bộ dương vật, tinh hoàn hai bên.

* Khám trong: Không tiến hành giải phẫu tử thi do Gia đình có đơn xin miễn giải phẫu tử thi, được Hội đồng khám nghiệm chấp thuận.

* Tại bản kết luận số 3134/17/GĐPY ngày 15/3/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận nguyên nhân chết của anh Nguyễn Văn L: Chết do Đa chấn thương do tai nạn giao thông.

Vũ Quang H sau khi tai nạn xẩy ra cũng bị thương nhưng H từ chối giám định nên Cơ quan điều tra không giám định tỷ lệ thương tật của H.

Quá trình điều tra Vũ Quang H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HSST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Huyện VY, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

- Căn cứ khoản 1 Điều 202- Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 – Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Vũ Quang H phạm tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ”.

- Xử phạt bị cáo: Vũ Quang H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo, quyền thi hành án theo quy định.

Ngày 05/12/2018 bị cáo Vũ Quang H kháng cáo bản án sơ thẩm với nộidung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng cho bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự hoặc cải tạo không giam giữ.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Vũ Quang H bổ sung yêu cầu kháng cáo của mình là xin được hưởng án treo: Bị cáo xác định án sơ thẩm xử bị cáo về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là có căn cứ. Bị cáo xác định lỗi trong vụ tai nạn là do bị cáo đã đi sai làn đường, không làm chủ được tốc độ. Tuy nhiên bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, bị cáo rất hối hận về việc làm của mình. Trong quá trình học tập bị cáo có nhiều giấy khen, đã thỏa thuận bồi thường với gia đình người bị hại và được gia đình người bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên toà phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Án sơ thẩm xử bị cáo là đúng người, đúng tội và không oan. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội với lỗi vô ý, hiện nay có nơi ở ổn định, rõ ràng. Mặt khác tại cấp phúc thẩm, bị cáo tiếp tục bồi thường, thỏa thuận với người bị hại và người bị hại xin cho bị cáo hưởng án treo. Do vậy, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên mức hình phạt và chuyển án treo cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự nên xác định là kháng cáo hợp pháp, được chấp nhận để xem xét giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm.

 [2] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thấy:

+ Về tội danh: Chiều ngày 09/3/2017, H điều khiển xe mô tô BKS: 98E1- 366.23 của H chở sau xe là anh Nguyễn Văn L đi trên đường cao tốc Hà Nội- Bắc Giang hướng Bắc Ninh đi Bắc Giang và đi tại làn đường dành cho phương tiện dừng đỗ khẩn cấp. Khoảng 18 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô đi đến Km123+ 420m thuộc địa phận xã TT- VY- Bắc Giang. Lúc này, có xe ô tô BKS 98D- 002.01 do anh Nguyễn Văn N đang đỗ trong làn đường dành cho phương tiện dừng đỗ khẩn cấp. Do thiếu chú ý quan sát và không làm chủ tay lái và đi vào đường cấm nên H điều khiển xe mô tô va chạm với phần phía sau bên trái xe ô tô của anh Năm. Sau đó, H và anh L cùng ngã xuống mặt đường. Anh L ngã văng ra lề đường bên trái thì vừa lúc này có xe ô tô BKS 12C - 026.91 do anh Nguyễn Xuân T, điều khiển đi đến và bánh xe thứ 03 bên trái của xe ô tô anh Thu va chạm với anh L. Hậu quả, anh L tử vong tại Bệnh viện tỉnh Bắc Giang cùng ngày. H bị thương.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Các lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với thời gian, địa điểm và vật chứng đã được thu giữ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do đó Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HSST ngày 26 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo Vũ Quang H về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

+ Về hình phạt: Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; lần đầu phạm tội, phạm tội với lỗi vô ý. Sau khi phạm tội thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải. Tại cấp phúc thẩm bị cáo có thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho đại diện người bị hại, được bố người bị hại có đơn đề nghị Tòa án cho bị cáo được hưởng án treo. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải bắt bị cáo cách ly xã hội mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú giám sát – giáo dục cũng đủ giáo dục bị cáo thành người tốt. Do vậy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với các quy định của pháp luật.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

[1] Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Quang H, sửa bản án sơ thẩm:Căn cứ khoản 1 Điều 202 - Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 – Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Vũ Quang H phạm tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ”.

Xử phạt bị cáo: Vũ Quang H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã LM, Huyện LN, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2]. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Vũ Quang H không phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HSPT ngày 27/02/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:31/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về