Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28/11/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 322/2019/TLST-HNGĐ, ngày 10 tháng 9 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 28 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 13/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim N. Sinh năm 1994.

Nơi cư trú: Thôn 2, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Minh B. Sinh năm 1994.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

Nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/8/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim N trình bày: Tôi với anh Huỳnh Minh B yêu nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 04/3/2015. Theo giấy chứng nhận kết hôn số 32, quyển số 01/2014. Trong quá trình chung sống chúng tôi có 01 con chung là: Huỳnh Minh K, sinh ngày 29/6/2015.

Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do tính tình không hợp, quan điểm sống không đồng nhất nên thường xuyên cãi vã và anh B hay bạo hành gia đình. Do mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng nên chúng tôi đã sống ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay. Từ khi sống ly thân đến nay tôi sống với bố mẹ đẻ tại Thôn 2, xã Chư A, thành phố P, tỉnh Gia Lai làm nghề pha chế vào buổi chiều, còn buổi sáng tôi bán đồ ăn sáng thu nhập bình quân khoảng 7 triệu đồng/ tháng.

Nay cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn nên tôi làm đơn xin ly hôn với nguyện vọng:

Về quan hệ hôn nhân: Xin được ly hôn với anh Huỳnh Minh B.

Về con chung: Tôi có nguyện vọng nuôi cháu Huỳnh Minh K, sinh ngày 29/6/2015, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chúng tôi tự thoả thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự cho nguyên đơn, bị đơn, tiến hành thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên anh Huỳnh Minh B vắng mặt không có lý do. Áp dụng khoản 3 Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vắng mặt đối với anh Huỳnh Minh B và căn cứ Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim N có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn anh Huỳnh Minh B đã được tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn đều thực hiện đúng các quy định của của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Huỳnh Minh B mặc dù được triệu tập hợp lệ nhưng không tham gia tố tụng tại Tòa án là vi phạm Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS năm 2015. Khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình (HNGĐ) đề nghị HĐXX tuyên: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Kim N được ly hôn với anh Huỳnh Minh B. Về nuôi con chung: Giao cháu Huỳnh Minh K, sinh ngày 29/6/2015 cho chị Nguyễn Thị Kim N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị Kim N không yêu cầu anh Huỳnh Minh B trợ cấp tiền nuôi con chung và không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên không đề cập để giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về hình thức: Căn cứ đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim N, Tòa án nhân dân huyện K xác định quan hệ pháp luật: Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung được quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS. Xét thấy tại thời điểm chị N làm đơn khởi kiện, bị đơn anh Huỳnh Minh B đang cư trú tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Do vậy Tòa án nhân dân huyện K áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Xét thấy Tòa án nhân dân huyện K đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy báo tham gia phiên tòa nhưng anh Huỳnh Minh B vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, nên Tòa án xét xử vắng mặt anh B là có căn cứ, phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của BLTTDS năm 2015.

[2] Xét về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim N xin ly hôn anh Huỳnh Minh B. Nhận thấy chị N và anh B tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 04/3/2015, theo giấy chứng nhận kết hôn số 32, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, sau đó do tính tình không hợp, quan điểm sống không đồng nhất nên vợ chồng thường xuyên xung đột gia đình. Do mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay, từ khi sống ly thân vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau.

Để có căn cứ pháp lý giải quyết vụ án ngày 24/10/2019 Tòa án đã tiến hành xác minh tại chính quyền địa phương và được chính quyền địa phương cung cấp rằng “Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chị N, anh B là do tính tình không hợp, quan điểm sống không đồng nhất, vợ chồng lại trẻ tuổi nên phát sinh hiều mâu thuẫn trong đời sống ,vợ chồng lại không nhường nhịn nhau nên xảy ra việc vũ lực trong gia đình, do mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân và chị N mang con là cháu K về nhà bố mẹ đẻ tại tỉnh Gia Lai sinh sống từ giữa năm 2018 cho đến nay”. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị N, anh B đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung của vợ chồng không thể kéo dài. Vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho chị Nguyễn Thị Kim N được ly hôn với anh Huỳnh Minh B là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3]Về con chung: Trong quá trình chung sống chị N và anh B có 01 con chung là cháu Huỳnh Minh K, sinh ngày 29/6/2015. Nguyện vọng của chị N xin được nuôi cháu K.

Tòa án thấy rằng theo bảng lương chị N cung cấp cho Tòa án thì hiện tại chị N đang làm nhân viên pha chế có thu nhập ổn định từ 7.000.000đ đến 9.000.000đ/tháng và đang ở cùng bố mẹ đẻ nên có đầy đủ mọi điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc giao con cho ai nuôi dưỡng sau khi bố mẹ ly hôn cần phải đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con chung, với mức lương kể trên thì chị N đảm bảo được sự phát triển toàn diện cho con chung. Mặc khác hiện nay bản thân cháu K đang còn nhỏ nên cần sự quan tâm chăm sóc, giáo dục đặc biệt của người mẹ. Do vậy, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu K cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến lúc cháu K tròn 18 tuổi và trao cho anh B được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được cản trở là phù hợp với hoàn cảnh thực tế và quy định của pháp luật.

[4] Về cấp dưỡng: Chị N không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5]Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Kim N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim N phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[7] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật nên HĐXX chấp nhận toàn bộ ý kiến và quan điểm của Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 ; Điều 203; Khoản 3 Điều 209, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Điều 27, Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim N và anh Huỳnh Minh B.

- Về nuôi con chung: Giao con chung cháu Huỳnh Minh K, sinh ngày 29/6/2015 cho Nguyễn Thị Kim N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho khi cháu K đủ 18 tuổi. Anh Huỳnh Minh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom và chăm sóc con chung không ai được cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Kim N không yêu cầu anh Huỳnh Minh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên không đề cập đến để giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Kim N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập để giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số AA/2019/0003832 ngày 05 tháng 9 năm 2019.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

“Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điểu 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về