Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về tranh chấp ly hôn và con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ CON CHUNG

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 43/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019, về việc tranh chấp ly hôn và con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26/9/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Minh Y, sinh năm 1988 (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn BH, xã PH, huyện BB, tỉnh Bình Thuận

- Bị đơn: Anh Qua Hồng S, sinh năm 1987 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn BH, xã PH, huyện BB, tỉnh Bình Thuận

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn - Chị Đặng Thị Minh Y trình bày: Sau thời gian tìm hiểu yêu thương nhau, được sự đồng ý của hai bên gia đình, chị và anh Qua Hồng s tiến hành tổ chức lễ cưới, sau đó đăng ký kết hôn tại UBND xã PH vào ngày 28/01/2016. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc và có chung với nhau một đứa con tên Qua Hải Đ (sinh ngày 02/01/2017), nhưng sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, không thể hàn gắn được. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S không quan tâm gì đến vợ con, thường xuyên đánh đập, xúc phạm chị, chị đã bỏ qua nhiều lần và mong anh S suy nghĩ lại nhưng anh S vẫn không thay đổi.

Nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với anh Qua Hồng S.

- Về con chung: Yêu cầu được nuôi con tên Qua Hải Đ (sinh ngày 02/01/2017); không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn-anh Qua Hồng S, Tòa án đã nhiều lần tống đạt giấy triệu tập đến Tòa án để làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhung anh S cố tình không đến, nên Tòa án không thể lấy lời khai và tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 56, Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Đặng Thị Minh Y được ly hôn anh Qua Hồng S.

- Về con chung: Giao con chung là Qua Hải Đ (sinh ngày 02/01/2017) cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng, anh S không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét yêu cầu và ý kiến của các bên đương sự; ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Qua Hồng S đến Tòa để lấy lời khai, hòa giải và tiến hành các thủ tục tố tụng khác, nhưng anh S không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án. Do đó, Tòa án không lấy lời khai cũng như không tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được, nên đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Qua Hồng S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn Đặng Thị Minh Y vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh Qua Hồng S; Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Y và anh S đã trầm trọng, không thể hàn gắn được. Cụ thể là: Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, anh S và chị Y không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Mặt khác, quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay, anh Qua Hồng S không đến Tòa án để làm việc, điều này chứng tỏ anh S thiếu thiện chí và không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, không còn tha thiết với cuộc sống hôn nhân với chị Đặng Thị Minh Y. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị Minh Y, như ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều này cũng phù hợp với ý kiến của chính quyền địa phương, thể hiện tại buổi làm việc ngày 14/8/2019.

[3]. Về con chung: Chị Đặng Thị Minh Y yêu cầu được nuôi con. Đối với yêu cầu này, Hội đồng xét xử nhận thấy: Từ khi vợ chồng chị Y, anh S sống ly thân đến nay, chị Y là người nuôi con, vẫn đảm bảo cho con có cuộc sống phát triển bình thường về thể chất cũng như về mặt tinh thần. Mặt khác, cháu Qua Hải Đ hiện còn rất nhỏ. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4]. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Đặng Thị Minh Y không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con, xét thấy chị Y không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện và chị Y từ trước đến nay vẫn nuôi con đảm bảo, nên Hội đồng xét xử không buộc anh S phải cấp dưỡng nuôi con.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Do không có ai yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.

[6]. Về án phí: Chị Đặng Thị Minh Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Tuyên xử:

1- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị Minh Y đối với anh Qua Hồng S.

2- Về con chung: Giao con tên Qua Hải Đ (sinh ngày 02/01/2017) cho chị Đặng Thị Minh Y nuôi dưỡng. Anh Qua Hồng S không phải cấp dưỡng nuôi con (do chị Đặng Thị Minh Y không yêu cầu). Anh Qua Hồng S được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.

3- Về án phí: Chị Đặng Thị Minh Y phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0016113 ngày 06/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Bình, chị Đặng Thị Minh Y đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/10/2019); Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về tranh chấp ly hôn và con chung

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về