Bản án 31/2018/HS-ST ngày 23/08/2018 về tội cố ý gây thương tích và cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU - TỈNH  NGHỆ AN

BẢN ÁN 31/2018/HS-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ CƯỚP TÀI SẢN

Trong các ngày 22 và 23 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu - Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lang Văn Tr. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 27 tháng 01 năm 1997 tại huyện Q - tỉnh N.

Nơi cư trú: Bản X 2 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: Lớp 9/12. Dân tộc: Thái. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lang Văn S và bà Vi Thị M. Vợ, con: Chưa có. Tiền án,tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 06/02/2018 và bị bắt, tạm giam từ ngày 06/02/2018 đến nay. Có mặt.

2. Họ và tên: Hà Văn Th. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 01 tháng 3 năm 2001 tại huyện Q - tỉnh N.

Nơi cư trú: Bản Ch - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp : Lao động tự do. Trình độ văn hoá: Lớp 3/12. Dân tộc: Thái. G iới tính: Nam. Tôn giáo : Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Hà Văn T và bà Hà Thị C. Vợ, con: Chưa có. Tiền án,tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 06/02/2018 và bị bắt, tạm giam từ ngày 06/02/2018 đến nay. Có mặt.

3. Họ và tên: Lang Văn N. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 12 tháng 4 năm 2000 tại huyện Q - tỉnh N.

Nơi cư trú: Bản X 1 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: Lớp 8/12. Dân tộc: Thái. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lang Văn Q và bà Vi Thị M. Vợ, con: Chưa có. Tiền án,tiền sự: Không. Bị bắt, tạm giam từ ngày 17/3/2018 đến nay. Có mặt.

4. Họ và tên: Vi Chí T. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 22 tháng 9 năm 2003 tại huyện Q - tỉnh N.

Nơi cư trú: Bản Ch - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hoá: Lớp 9/12. Dân tộc: Thái. G iới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Vi Văn N và bà Lương Thị H. Vợ, con: Chưa có. Tiền án,tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 06/02/2018; hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

5. Họ và tên: Quang Văn H. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 10 tháng 5 năm 1996 tại huyện Q - tỉnhN.

Nơi cư trú: Bản H 1 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: Lớp 6/12. Dân tộc: Thái. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Quang Văn D và bà Nguyễn Thị Đ. Vợ, con: Chưa có.Tiền án,tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 06/02/2018; hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Hà Văn Th:

Bà Hà Thị C - sinh năm 1968. Nơi cư trú: Bản Ch - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Bà C là Mẹ bị cáo Hà Văn Th. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lang Văn N:

Bà Vi Thị M - s inh năm 1975. Nơi cư trú: Bản X 1 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Bà M là Mẹ bị cáo Lang Văn N. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Vi Chí T:

Ông Vi Văn N - sinh năm 1976. Nơi cư trú: Bản Ch - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Ông N là Bố bị cáo Vi Chí T. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo:

1. Bà Nguyễn Thị Thủy.

Trợ giúp viên. Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bà Nguyễn Thị Thủy là người bào chữa cho các bị cáo Hà Văn Th và Vi Chí T đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Lang Văn S.

2. Bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang.

Trợ giúp viên. Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang là người bào chữa cho các bị cáo Lang Văn N, Lang Văn Tr và Quang Văn H đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Lương Văn T.

- Người bị hại:

1. Anh Cầm Bá C. Sinh năm 1997.

Nơi cư trú: Bản Ch - xã C - huyện Q - tỉnh N Nghề nghiệp: Công an. Có mặt.

2. Anh Lương Văn N. Sinh năm 1997.

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N Nghề nghiệp: Sinh viên. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Lương Văn T. Sinh ngày 21/8/2002.

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lương Văn T: Ông Lương Văn C - sinh năm 1968.

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N. Ông C là Bố của Lương Văn T. Có mặt.

2. Lang Văn S. Sinh ngày 15/5/2002.

Nơi cư trú: Bản X 1 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lang

Văn S: Bà Vi Thị M - sinh năm 1975.

Nơi cư trú: Bản X 1 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Bà M là Mẹ của Lang Văn S. Có mặt.

3. Lang Văn Đ. Sinh năm 1994.

Nơi cư trú: Bản X 2 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

1. Lang Thanh T - sinh ngày 20/10/2001.

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Học sinh. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của Lang Thanh T: Ông Lang Văn Th - sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N. Ông Th là Bố của Lang Thanh T. Có mặt.

2. Vi Văn H (Vy Quốc H) - sinh ngày 24/8/2001.

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của Vi Văn H (Vy Quốc H): Ông Vy Văn L - sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Bản H - xã C- huyện Q - tỉnh N.

Ông L là Bố của Vi Văn H (Vy Quốc H). Vắng mặt.

3. Lang Văn S - sinh ngày 24/7/2001.

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N. Nghề nghiệp: Học sinh. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của Lang Văn S: Ông Lang Văn T - sinh năm 1980

Nơi cư trú: Bản H - xã C - huyện Q - tỉnh N. Ông T là Bố của Lang Văn S. Có mặt.

4. Vi Văn M - sinh năm 1998.

Nơi cư trú: Bản H 2 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Vắng mặt.

5. Hồ Đức L - sinh năm 1982.

Nơi cư trú: Bản H 2 - xã C - huyện Q - tỉnh N. Vắng mặt.

(Lang Thanh T, Vi Văn H (Vy Quốc H), Lang Văn S, Vi Văn M và Hồ Đức L là những người làm chứng trong vụ án).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào tối ngày 27/01/2018, Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Vi Chí T, Lang Văn N, Lang Văn S, Lương Văn T và Quang Văn H cùng nhau đi chơi tại bản H, xã C, huyện Q. (Lang Văn N và Lang Văn S là hai anh em ruột). Sau khi chơi xong cả nhóm cùng nhau đưa Quang Văn H về nhà tại Bản H T 1, xã C, huyện Q. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì Lang Văn Tr điều khiển xe máy nhãn hiệu SYM loại ELEGANT có biển số đăng ký 37G1-084.20 chở theo sau là Lang Văn N và Lang Văn S, còn Hà Văn Th điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA loại WAVE @ có biển số đăng ký 37G1-096.42 chở theo sau là Vi Chí T và Lương Văn T từ nhà H ra về. Khi về đến gần khu vực Hang B thuộc địa phận Bản H T 2, xã C, huyện Q thì gặp anh Cầm Bá C đang điều khiển xe máy chở theo anh Lương Văn N đi ngược chiều. Lúc đó Hà Văn Th nói với cả nhóm quay lại chặn xe của anh C. Khi chạy đuổi theo khoảng 100 mét thì kịp xe anh C. Tại đó, Tr cùng với N và S đứng chặn xe của anh C lại đồng thời Tr nó i Th đi gọi thêm người đến để đánh các anh C và N. Nghe Tr nó i thế nên Th điều khiển xe chở theo T và T quay lại Bản H T 1, xã C rủ thêm Quang Văn H. Nghe Th nói vậy, H lên xe cùng cả nhóm đến để đánh nhau. Khi đến nơi, H nhặt được 01 thanh gỗ bên đường rồi cùng cả nhóm lao vào đánh anh C và anh N. Do bị đánh, C và N bỏ chạy nhưng bị nhóm của Tr tiếp tục đuổi đánh. Đến bãi đất trống trước khu vực Hang B thì nhóm của Tr đuổi kịp và lao vào tiếp tục đánh C và N làm cả hai ngã gục xuống đất. Khi thấy anh C và anh N ngã xuống thì Quang Văn H, Lang Văn S và Lương Văn T dừng tay không đánh nữa. Trong quá trình đánh như vậy, Hà Văn Th giật lấy 01 dây chuyền bạc trên cổ anh N. Lúc đó Lang Văn Tr nói với anh N đưa điện thoại để gọi người nhà đến đón nhưng anh N không đưa nên Tr, Th, T và N tiếp tục lao vào đánh anh N. T iếp đó T dùng tay thò vào túi quần của anh N móc lấy 01 đ iện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S. Sau đó Tr và Th quay sang nói anh C lấy điện thoại ra. Anh C đã lấy trong túi ra 01 đ iện thoại d i động nhãn hiệu XIAO MIMAX đưa cho Tr. Khi thấy nhóm đối tượng trên ra xe để về thì anh N ngồ i dậy nói xin lại điện thoại để gọi người nhà đến đón thì Tr, Th, N không cho và dọa đánh tiếp. Nhóm của Tr về đến khu vực Cầu M thuộc địa phận Bản X 1, xã C, huyện Q thì dừng lại. Tại đó T đưa chiệc điện thoại lấy được của anh N cho Th giữ, còn Lang Văn Tr dặn với cả nhóm nếu Công an có hỏi thì đừng khai ra chuyện gì. Sau đó cả nhóm đi về nhà.

Ngày 28/01/2018 các anh Cầm Bá C, Lương Văn N làm đơn trình báo đề ngh ị xử lý vụ việc đồng thời đi bệnh viện điều trị thương tích và yêu cầu giám đ ịnh tỷ lệ tổn hại sức khỏe của bản thân.

Thương tích của Lương Văn N do bị đánh gồm: 01 vết xước rách da dài 05 cm ngang vùng thái dương phải; 01 vết trầy xước da không rõ hình thù dài 05 cm vùng thái dương phải; 01 vết trầy xước da không rõ hình thù dài 06 cm vùng trán phải; 01 vết trầy xước da dài 04 cm tại gò má phải; 01 vết bầm tụ không rõ hình dài 01 cm sát môi trên; 01 điểm sưng tấy không rõ hình ở vùng gáy bên trái.

Thương tích của Cầm Bá C do bị đánh gồm: 01 vết tấy đỏ dài 03 cm nằm ngang gần lông mày trái; 01 vết bầm tím dài 03 cm nằm sát mí dưới mắt trái; 01 vết trầy xước da không rõ hình thù ở gò má phải; 01 vết sưng tấy đỏ ở khóe miệng bên phải; có 04 vết xước tấy đỏ vùng mắt cá của tay trái; 01 vết tấy đỏ không rõ hình thù dài 07 cm ở mặt ngoài bàn tay trái; 01 vết xước dài 01 cm tại đốt thứ hai ngón út tay phải.

Tại các kết luận giám định số 36/TTPY và 37/TTPY cùng ngày 30/01/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh N kết luận: Tổng tỷ lệ tổn hại sức khỏe do thương tích gây nên của Cầm Bá C tại thời đ iểm giám đ ịnh là 02%; Tổng tỷ lệ tổn hại sức khỏe do thương tích gây nên của Lương Văn N là 03%.

Tại Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐG ngày 05/02/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện Q – tỉnh N kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S có trị giá 2.300.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu XIAO MIMAX có trị giá 2.100.000đ ; 01 dây chuyền bằng bạc dài 53 cm có trị giá 300.000đ. Tổng cộng: 4.700.000đ (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng chẵn).

Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q thu giữ từ Hà Văn Th 01 đ iện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, 01 điện thoại di động nhãn hiệu XIAO MIMAX và 01 dây chuyền bằng bạc dài 53 cm đồng thời đã trả lại cho những người bị hại.  Ngoài ra còn thu giữ 01 xe máy nhãn hiệu SYM loại ELEGANT có biển số đăng ký  37G1-084.20. Riêng chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại WAVE @ có biển số đăng ký 37G1-096.42 thì không thu giữ. Đã tổ chức truy tìm thanh gỗ Quang Văn H sử dụng để đánh nhau nhưng không thấy.

Trên cơ sở đó, Cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 23/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh N quyết định truy tố ra trước Tòa án để xét xử Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Lang Văn N về tội „„Cố ý gây thương tích‟‟ theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 điều 134 và tội "Cướp tài sản" theo quy định tại khoản 1 điều 168 BLHS; truy tố ra trước Tòa án để xét xử Vi Chí T về tội "Cướp tài sản" theo quy định tại khoản 1 điều 168 BLHS; truy tố ra trước Tòa án để xét xử Quang Văn H về tội„„Cố ý gây thương tích‟‟ theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 điều 134 BLHS.

Riêng đối với Lang Văn S và Lương Văn T không tham gia cướp tài sản, còn đối với hành vi gây thương tích thì tính đến ngày thực hiện hành vi vi phạm pháp luật chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quan đ iểm truy tố các bị cáo về tộ i danh và điều luật như nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng quy định tại các điểm a, i khoản 1 điều 134; khoản 1 đ iều 168; các điểm b, s khoản 1 điều 51; điều 55 BLHS. Xử phạt Lang Văn Tr từ 06 đến 09 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích" và từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội "Cướp tài sản". Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chunng cho cả hai tội từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 03 tháng tù.

Áp dụng quy định tại các điểm a, i khoản 1 điều 134; khoản 1 điều 168; các điểm b, s khoản 1 điều 51; điều 54; đ iều 55; điều 90; điều 91 và điều 101 BLHS. Xử phạt Hà Văn Th từ 06 đến 09 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích" và từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội "Cướp tài sản". Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chunng cho cả hai tội từ 02 năm đến 02 năm 09 tháng tù.

Áp dụng quy định tại các điểm a, i khoản 1 điều 134; khoản 1 đ iều 168; các điểm b, s khoản 1 điều 51; điều 54; đ iều 55; điều 90; đ iều 91 và điều 101 BLHS. Xử phạt Lang Văn N 06 tháng tù về tộ i "Cố ý gây thương tích" và từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù đều về tộ i "Cướp tài sản". Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chunng cho cả hai tội từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Áp dụng quy định tại khoản 1 đ iều 168; các điểm b, s khoản 1 điều 51; điều 54; điều 90; đ iều 91 và đ iều 101 BLHS. Xử phạt Vi Chí T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội "Cướp tài sản".

Áp dụng quy định tại các điểm a, i khoản 1 đ iều 134; các điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS. Xử phạt Quang Văn H từ 09 đến 12 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích".

Trả lại chiếc xe máy cho anh Lang Văn Đ.

Bà Nguyễn Thị Thủy là người bào chữa cho các bị cáo Hà Văn Th và Vi Chí T đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Lang Văn S; bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang là người bào chữa cho các bị cáo Lang Văn N, Lang Văn Tr và Quang Văn H đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Lương Văn T trình bày: Nhất trí xác định hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng cho rằng bản thân các bị cáo là người dân tộc thiểu số, thuộc đối tượng hộ nghèo, sống ở vùng sâu xa có hoàn cảnh rất khó khăn, trong đó tính đến ngày thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì Hà Văn Th, Lang Văn N, Vi Chí T, Lương Văn T và Lang Văn S chưa đủ 18 tuổ i nên năng lực hành vi và nhận thức pháp luật hạn chế. Đề nghị áp dụng quy định các điểm a, i khoản 1 điều 134; khoản 1 đ iều 168; các điểm b, i, s khoản 1- khoản 2 điều 51, các điều 54, 55, 58, 90, 91, 101 và điều 65 BLHS. Xử phạt tương ứng đối với từng b ị cáo như sau:

- Lang Văn Tr từ 03 đến 06 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích" và từ 15 đến 18 tháng tù về tộ i "Cướp tài sản". Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là từ 18 đến 24 tháng tù.

- Hà Văn Th 06 tháng tù về tộ i "Cố ý gây thương tích" và 18 tháng tù về tội "Cướp tài sản". Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tộ i là 24 tháng tù.

- Lang Văn N từ 03 đến 06 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích" và 12 tháng tù về tội "Cướp tài sản". Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo.

- Vi Chí T 01 năm tù cho hưởng án treo về tội 'Cướp tài sản".

- Quang Văn H từ  06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội "Cố ý gây thương tích".

Không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết đ ịnh tố tụng của cơ quan đ iều tra Công an huyện Q, của điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố. Về cơ bản Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng do Bộ luật tố tụng Hình sự quy định. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết đ ịnh của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn này. Tuy nhiên trong vụ án có đến 03 trên tổng số 05 bị cáo tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi là Hà Văn Th, Lang Văn N và Vi Chí T; có 02 người có nghĩa vụ liên quan (Lương Văn T, Lang Văn S) và 03 người làm chứng (Lang Thanh T, Vi Văn H - tên gọi khác là Vy Quốc H và Lang Văn S) cũng chưa đủ 18 tuổi. Nhưng quá trình điều tra vụ án, trong nhiều trường hợp điều tra viên đã vi phạm thủ tục tố tụng được quy định tại các điều 420 và 421 Bộ luật TTHS. Cụ thể là khi lấy lời khai của những đối tượng này không mời người đại diện hợp pháp, không có người giám hộ, không có người bào chữa tham gia. Đơn cử đó là Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu do cơ quan điều tra lập vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 28/01/2018 (Bút lục 135 trong hồ sơ vụ án) để tiến hành thu giữ các loại tài sản do các đối tượng chiếm đoạt được của những người b ị hại đang do Hà Văn Th cất giữ, quá trình làm việc không có ai là đại diện hợp pháp, không có người giám hộ, không có người bào chữa cho Hà Văn Th cùng tham gia. Tương tự như vậy là Biên bản khám nghiệm hiện trường được lập hồi 16 giờ 30 phút ngày 29/01/2018 (Bút lục 149); Biên bản ghi lời khai những người làm chứng là Lang Thanh T, Vi Văn H và Lang Văn S (Bút lục 310, 312 và 314) cũng đều vi phạm quy định này; xác định tên, tuổi, ngày tháng năm sinh của Vi Văn H không đầy đủ, không chính xác. Đây là những vi phạm thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra mà Đ iều tra viên mắc phải và trong đó có một phần lỗ i của Kiểm sát viên thực hành quyền kiểm sát điều tra đã không làm hết trách nhiệm của mình nên dẫn đến những vi phạm trên làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Bên cạnh đó những người bào chữa cũng không tham gia đầy đủ những lần làm việc của Điều tra viên với bị can và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra theo quy định tại điều 73 BLTTHS. Vì vậy Hội đồng xét xử kiến nghị với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q và Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh N tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo về chuyên môn để Điều tra viên, Kiểm sát viên và người bào chưa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nâng cao tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

[2] Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận vào khoảng 23 giờ ngày 27/01/2018, trên đường đi chơi về từ hướng xã C T sang xã C B thuộc huyện Q, khi đến gần khu vực Hang B thuộc địa phận Bản H T 2, xã C B thì cả nhóm gặp anh Cầm Bá C đang điều khiển xe máy chở theo anh Lương Văn N đi ngược chiều. Lúc đó Hà Văn Th nói với cả nhóm quay lại chặn xe của anh C để đánh.

Cả nhóm đi trên 02 xe máy quay lại chạy đuổi theo khoảng 100 mét thì kịp xe anh C. Tại đó, Tr cùng với N và S đứng chặn xe của anh C lại còn Th điều khiển xe chở theo T và T quay lại rủ thêm Quang Văn H. Khi đến nơi, H nhặt được 01 thanh gỗ bên đường rồi cùng cả nhóm lao vào đánh anh C và anh N. Do bị đánh không rõ nguyên cớ nên C và N bỏ chạy nhưng b ị nhóm của Tr tiếp tục đuổi đánh. Khi đến bãi đất trống trước khu vực Hang B thì nhóm của Tr đuổi kịp và lao vào tiếp tục dùng tay, chân và gậy gỗ đánh làm C và N ngã gục xuống đất. Khi thấy anh C và anh N ngã xuống thì Quang Văn H, Lang Văn S và Lương Văn T dừng tay không đánh nữa. Trong quá trình đánh như vậy, Hà Văn Th giật lấy 01 dây chuyền bạc trên cổ anh N. Lúc đó Lang Văn Tr nói với anh N đưa đ iện thoại để gọi người nhà đến đón nhằm mục đích chiếm đoạt nhưng anh N không đưa nên Tr, Th, T và N tiếp tục lao vào đánh. Tiếp đó T dùng tay thò vào túi quần của anh N lấy 01 điện thoại d i động nhãn hiệu Iphone 5S. Sau đó Tr và Th quay sang nói anh C lấy điện thoại ra. Do sợ bị đánh tiếp nên anh C đã lấy trong túi ra 01 điện thoại di động nhãn hiệu XIAO MIMAX đưa cho Th. Khi thấy nhóm đối tượng trên ra xe để về thì anh N có ngồi dậy xin lại điện thoại để gọi người nhà đến đón thì Tr, Th, N không cho và dọa đánh tiếp nên các anh C và N không dám làm gì. Sau khi bị đánh, anh Cầm Bá C và anh Lương Văn N phải điều trị tại Trung tâm y tế huyện Q.

Tổng tỷ lệ tổn hại sức khỏe do bị đánh của anh Cầm Bá C tại thời đ iểm giám định là 02%,

Tổng tỷ lệ tổn hại sức khỏe do bị đánh của anh Lương Văn N tại thời điểm giám định là 03%.

Tổng trị giá tài sản các bị cáo chiếm đoạt của anh Cầm Bá C và Lương Văn N là 4.700.000đ (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng chẵn). Gồm 01 điện thoại d i động nhãn hiệu Iphone 5S trị giá 2.300.000đ; 01 điện thoại d i động nhãn hiệu XIAO MIMAX trị giá 2.100.000đ; 01 dây chuyền bằng bạc dài 53 cm trị giá 300.000đ.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, lời trình bày của bị hại và những ngườ i có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng trong vụ án phù hợp lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu trong Hồ sơ vụ án và những vật chứng được thu giữ; thấy rằng trong quá trình đánh nhau như vậy, ngoài việc sử dụng chân tay thì các bị cáo còn dùng gậy gỗ để đánh các anh C và N, đây là hung khí nguy hiểm; giữa đêm hôm khuya khoắt các bị cáo đã vô cớ chặn người đi đường để đánh họ trong lúc không hề b iết nhau và không có xích mích, mâu thuẫn gì, qua đó thể hiện tính côn đồ hung hãn. Như vậy đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: các bị cáo Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Quang Văn H và Lang Văn N cùng với các đối tượng Vi Chí T, Lang Văn S và Lương Văn T đã có hành vi Cố ý gây thương tích cho anh C và anh N; đồng thời cũng đã xác định được ngoài hành vi gây thương tích ra thì Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Vi Chí T và Lang Văn N còn có hành vi Cướp tài sản của anh C và anh N. Những hành vi này đều đã hoàn thành và phải chịu trách nhiệm hình sự và các trách nhiệm khác liên quan tương ứng theo quy định của pháp luật. Do thương tích mà các bị cáo gây ra cho anh C là 2% và N là 3% tổn hại sức khỏe; đồng thời tổng số tài sản bị cướp trong vụ án là 4.700.000đ (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng chẵn) nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố các bị cáo theo các điểm điểm a, i khoản 1 điều 134 và khoản 1 điều 168 BLHS là thỏa đáng và có cở sở.

[3] Xét tính chất vụ án, vai trò của từng đối tượng tham gia và trách nhiệm cá biệt: Vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng và hành vi phạm tộ i của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo tuổi đời còn trẻ, được gia đình, nhà trường, xã hộ i chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và có nhận thức nhất định về pháp luật nhưng do sớm đua đòi ăn chơi, không có ý thức tu dưỡng và tuân thủ pháp luật, thiếu sự quản lý của gia đình nên đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, đó là xâm phạm trật tự công cộng, gây thiệt hại đến sức khỏe và tài sản của người khác, dẫn đến gây mất an ninh trật tự và an toàn xã hộ i. Lang Văn Tr và Quang Văn H là những đối tượng đã trưởng thành và thực hiện hành vi phạm tộ i một cách tích cực, nên phải chịu trách nhiệm chính tương ứng với hành vi phạm tội của bản thân. Mặc dù Lang Văn S và Lương Văn T có hành vi gây thương tích cho anh C và anh N nhưng cho đến ngày thực hiện hành vi vi phạm pháp luật các đối tượng này chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 12 BLHS nhưng phải chịu các trách nhiệm khác liên quan tương ứng theo quy định của pháp luật, đó là nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về vật chất mà bản thân đã gây ra cho người khác.

Quang Văn H đã có hành vi dùng gậy gỗ cùng đồng bọn đánh gây thương tích cho những người b ị hại. Nhưng b ị cáo không thực hiện hành vi Cướp tài sản, sau khi phạm tộ i không có ý thức bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do bản thân gây ra cho người b ị hại, không chấp hành các quyết đ ịnh tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Do đó chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự và những nghĩa vụ tương ứng với hành vi phạm tộ i mà bản thân gây ra.

Đối với Vi Chí T đã thực hiện hành vi phạm tộ i một cách tích cực, bị cáo không những đánh gây thương tích cho bị hại mà còn cùng đồng bọn thực hiện hành vi Cướp tài sản. Tuy nhiên cho đến ngày thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì Vi Chí T chưa đủ tuổ i chịu trách nhiệm hình sự đối với những loại tộ i phạm ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật, nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi

Cướp tài sản và phải chịu các trách nhiệm khác liên quan tương ứng theo quy định của pháp luật, đó là nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về vật chất mà bản thân đã gây ra.

[4] Xét tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hố i cải; bản thân Hà Văn Th, Lang Văn N và Vi Chí T tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tộ i chưa đủ 18 tuổi do đó phần nào hạn chế về nhận thức cũng như năng lực hành vi và năng lực pháp luật; trong quá trình đ iều tra và chuẩn bị xét xử các bị cáo Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Lang Văn N, Vi Chí T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Lang Văn S đã có sự tác động để cùng gia đình bồi thường cho anh C và anh N tổng số tiền 7.850.000đ (Bảy triệu, tám trăm năm mươi nghìn đồng); đây là lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đối với hành vi gây thương tích; Vi Chí T có ông nội là Vi Quý D được nhà nước tặng Bằng khen. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 - khoản 2 điều 51 BLHS để vận dụng xử phạt tương ứng với từng b ị cáo khi lượng hình. Ngoài ra cần căn cứ các điều 54, 91 và 101 BLHS để xử phạt với một số bị cáo trong vụ án. Xét động cơ phạm tội của các bị cáo mang tính chất côn đồ (đối với tộ i Cố ý gây thương tích), do đó Hội đồng xét xử thấy không thể xử phạt các bị cáo Lang Văn N, Vi Chí T và Quang Văn H mức phạt tù cho hưởng án treo như đề nghị của những người bào chữa. Cần xử phạt nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội; đồng thời cũng để làm bài học răn đe, phòng ngừa, cảnh tỉnh chung.

[5] Hình phạt bổ sung: Tất cả các bị cáo đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, một số bị cáo chưa đủ 18 tuổ i và không có tài sản riêng. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Trách nhiệm dân sự: Đối với hành vi Cướp tài sản. Trong vụ án này các bị cáo đã cướp của anh Cầm Bá C 01 điện thoại d i động nhãn hiệu XIAO MIMAX trị giá 2.100. 000đ; cướp của anh Lương Văn N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S trị giá 2.300.000đ và 01 dây chuyền bằng bạc trị giá 300.000đ. Tổng cộng 4.700.000đ (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng chẵn). Quá trình điều tra đã thu hồ i toàn bộ số tài sản này trả lại cho bị hại, nay anh C và anh N không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại về tài sản. Nên miễn xét.

Đối với hành vi Gây thương tích. Sau khi bị đánh các anh C và N đã phải khám và điều trị tại Trung tâm y tế huyện Q. Anh Cầm Bá C yêu cầu bồi thường toàn bộ thiệt hại là 5.442.000đ (Năm triệu, bốn trăm bốn mươi hai nghìn đồng); anh Lương Văn N yêu cầu bồi thường toàn bộ thiệt hại là 5.548.000đ (Năm triệu, năm trăm bốn mươi tám nghìn đồng). Tổng cộng 10.990.000đ (Mười triệu, chín trăm chín mươi nghìn đồng chẵn). Thiệt hại về sức khỏe của anh C và anh N là do các bị cáo Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Lang Văn N, Vi Chí T, Quang Văn H và các đối tượng Lang Văn S và Lương Văn T gây nên; mặc dù Lang Văn S và Lương Văn T chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại về dân sự do bản thân gây ra. Quá trình điều tra và chuẩn bị xét xử, các bị cáo Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Lang Văn N, Vi Chí T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lang Văn S đã có s ự tác động cùng gia đình bồi thường cho những người bị hại tổng số tiền 7.850.000đ (Bảy triệu, tám trăm năm mươi nghìn đồng); trong đó Lang Văn Tr, Hà Văn Th, Lang Văn N, Vi Chí T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lang Văn S mỗi người đã bồi thường 1.570.000đ; anh C và anh N mỗi người đã nhận tiền bồi thường là 3.925.000đ (Ba triệu, chín trăm hai mươi lăm nghìn đồng). Nay anh C và anh N không yêu cầu bồi thường tiếp số tiền còn lại, không có yêu cầu gì thêm. Nên miễn xét.

Sau này giữa các bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có tranh chấp về số tiền bồi thường, nghĩa vụ bồi thường và có yêu cầu thì sẽ xem xét, giải quyết bằng vụ án khác theo trình tự tố tụng dân sự.

[7] Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ 01 (Một) xe máy nhãn hiệu SYM loại ELEGANT có biển số đăng ký 37G1-084.20. Đây là xe máy của anh Lang Văn Đ cho Lang Văn Tr mượn sử dụng đi lại, chiếc xe này không sử dụng cho mục đích phạm tội, không phải do phạm tội mà có. Cần căn cứ quy định tại điều 106 BLTTHS để tuyên trả lại chiếc xe máy cho anh Lang Văn Đ.

[8] Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các điểm a, i khoản 1 điều 134; các điểm b, i, s khoản 1 điều 51; điều 58; điều 38 BLHS. Xử phạt Lang Văn Tr 06 (Sáu) tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích".

Căn cứ khoản 1 điều 168; đ iểm s khoản 1 đ iều 51; điều 58; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Lang Văn T 03 (ba) năm tù về tội "Cướp tài sản".

Căn cứ khoản 1 điều 55 BLHS để tổng hợp hình phạt, buộc Lang Văn T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2018.

2. Căn cứ các điểm a, i khoản 1 đ iều 134; các điểm b, i, s khoản 1 điều 51; điều 54; điều 58; điều 38; điều 91 và điều 101 BLHS. Xử phạt Hà Văn T 04 (Bốn) tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích".

Căn cứ khoản 1 điều 168; điểm s khoản 1 điều 51; điều 54; điều 58; điều 38; điều 91 và điều 101 BLHS. Xử phạt Hà Văn T 02 (Hai) năm tù về tội "Cướp tài sản".

Căn cứ khoản 1 điều 55 BLHS để tổng hợp hình phạt, buộc Hà Văn T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 02(Hai) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2018.

3. Căn cứ các điểm a, i khoản 1 đ iều 134; các điểm b, i, s khoản 1 điều 51; điều 54; điều 58; điều 38; đ iều 91 và điều 101 BLHS. Xử phạt Lang Văn N 04 (Bốn) tháng tù về tộ i "Cố ý gây thương tích".

Căn cứ khoản 1 điều 168; điểm s khoản 1 điều 51; điều 54; điều 58; đ iều 38; điều 91 và điều 101 BLHS. Xử phạt Lang Văn N 02 (Hai) năm tù về tội "Cướp tài sản".

Căn cứ khoản 1 điều 55 BLHS để tổng hợp hình phạt, buộc Lang Văn N phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 02(Hai) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/3/2018.

4. Căn cứ khoản 1 điều 168; các điểm b, s khoản 1 - khoản 2 điều 51; điều 54; điều 58; điều 38; đ iều 91 và điều 101 BLHS. Xử phạt Vi Chí T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội "Cướp tài sản". Thời hạn tù tính từ ngày bắt để đảm bảo cho công tác thi hành án (ngày 23/8/2018), được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 06/02/2018.

5. Căn cứ các điểm a, i khoản 1 điều 134; các điểm i, s khoản 1 điều 51; điều 58; điều 38 BLHS. Xử phạt Quang Văn H 06 (Sáu) tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích". Thời hạn tù tính từ ngày bắt để đảm bảo cho công tác thi hành án (ngày 23/8/2018), được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 06/02/2018.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điều 106 BLTTHS. Tuyên trả lại cho anh Lang Văn Đ 01 (Một) xe máy nhãn hiệu SYM loại ELEGANT có biển số đăng ký 37G1- 084.20, xe đã qua sử dụng và có đặc điểm như mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng được lập vào hồi 16 giờ, ngày 10/5/2018 giữa Cơ quan cảnh sát đ iều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Q.

Án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 Bộ Luật tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc Lang Văn T, Hà Văn T, Vi Chí T, Lang Văn N và Quang Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt các bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lang Văn S, Lang Văn Đ; có mặt những người đại d iện hợp pháp là các bà Hà Thị C, Vi Thị M, các ông Vi Văn N, Lương Văn C; có mặt những người bị hại. Tất cả đều được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lương Văn T. Được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HS-ST ngày 23/08/2018 về tội cố ý gây thương tích và cướp tài sản

Số hiệu:31/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về