TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 31/2018/HS-PT NGÀY 07/03/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 07 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (11 Tôn Đức Thắng, thành phố Huế) xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2018/TLPT-HS ngày 04/01/2018 đối với bị cáo Trương B, do có kháng cáo của bị cáo Trương B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức T và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:
Trương B, sinh ngày 12/5/1992, tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: tổ dân phố GT 1, phường HV, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 09/12; giới tính: Nam; con ông Trương M và bà Phạm Thị H; vợ: Võ Thị X; con: có 02 con (lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: ngày 07/4/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 08 tháng 26 ngày tù (tuyên trả tự dọ tại phiên tòa) về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 10/2011/HSST.
Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Dương Tiến D - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
- Bị hại:
1. Anh Nguyễn Đình H (đã chết).
Đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Đình H:
- Ông Nguyễn Đình H1 (bố của anh H), sinh ngày 10/5/1946. Trú tại: Phố 1, phường QH, thành phố TH. Có mặt.
- Bà Hoàng Thị N (mẹ của anh H), trú tại: Phố 1, phường QH, thành phố TH. Vắng mặt.
- Bà Nguyễn Kim D (vợ của anh H), sinh ngày 14/12/1983. Trú tại: Phố 1, phường phường QH, thành phố TH. Có mặt.
- Cháu Nguyễn Khánh H (con của anh H), sinh ngày 22/10/2005. Trú tại: Phố 1, phường QH, thành phố TH. Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Khánh H: Bà Nguyễn Kim D, sinh ngày 14/12/1983. Trú tại: Phố 1, phường QH, thành phố TH. Có mặt.
2. Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1972. Trú tại: Thôn 3, xã HQ, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1985. Trú tại: 24 LL, tiểu khu 2, thị trấn AT, huyện TP, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 55 phút ngày 31/10/2016, Trương B có giấy phép lái xe hợp lệ hạng C, trực tiếp điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 chạy trên đường tránh Huế theo hướng Đà Nẵng - Đông Hà. Khi đến Km 5+520 đường tránh Huế thuộc địa phận phường HC, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế, B điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 vượt bên trái xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 kéo theo Sơmi rơmooc biển kiểm soát 51R-127.12 do anh Đặng Việt T điều khiển đang chạy phía trước cùng chiều và đi qua phần đường ngược chiều nên đã để xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 do B điều khiển va chạm với xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70 do anh Nguyễn Đình H trực tiếp điều khiển, trên xe có anh Nguyễn Văn K đang lưu thông theo hướng ngược lại làm xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 xoay ngang đường. Lúc này, xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 kéo theo Sơmi rơ móoc biển kiểm soát 51R-127.12 do anh Đặng Việt T chạy từ phía sau tới va chạm vào phần đuôi của xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 gây nên tai nạn giao thông.
Hậu quả:
- Anh Nguyễn Đình H chết tại chỗ, anh Nguyễn Văn K bị chấn thương sọ não nhẹ. Anh Trương B bị chấn thương sọ não, đa chấn thương, bị gãy 1/3 giữa xương đùi trái.
- Xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70 bị hư hỏng nặng; xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 kéo theo Sơmi rơ móoc biển kiểm soát 51R-127.12 bị hư hỏng nhẹ.
Hiện trường nơi xảy ra tai nạn: Tại Km 5+520, đường tránh Huế thuộc phường HC, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đoạn đường được rải thảm nhựa, mặt đường thẳng, gồ ghề, gợn sóng, tầm nhìn không bị hạn chế. Mặt đường rộng 11m, được chia làm 04 làn đường gồm tim đường ở ngay giữa cách hai mép đường là 5m50 được sơn chỉ màu vàng bị đứt quãng, chia thành 02 luồng trái chiều nhau. Mỗi bên có một làn đường dành cho xe cơ giới rộng 03m50 và một làn dành cho xe thô sơ rộng 02m00 được phân cách bởi chỉ sơn liền màu trắng. Đường không giao nhau với đường khác.
Hướng Đông Hà – Đà Nẵng tiến hành khám nghiệm hiện trường đã xác định: Điểm va chạm đầu tiên giữa xe ô tô tải biển kiểm soát 75C - 006.09 và xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70 cách mép đường phải (hướng khám nghiệm Đông Hà – Đà Nẵng) là 3m80 và ngay tâm vùng vỡ số (2). Điểm va chạm giữa xe ô tô tải biển kiểm soát 75C - 006.09 và xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 kéo theo Sơmi rơ móoc biển kiểm soát 51R-127.12 cách mép đường phải(hướng khám nghiệm Đông Hà – Đà Nẵng) là 07m60 và nằm ngay khởi điểm vùng chà số (6).
Trên cơ sở các dấu vết đã thu thập được tại hiện trường, phương tiện xác định nguyên nhân của vụ tai nạn trên là lỗi hoàn toàn do Trương B điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 vượt không đảm bảo an toàn và đi không đúng phần đường quy định vi phạm Điều 9, Điều 14 Luật giao thông đường bộ.
Ngày 31/10/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 173/TCGĐ trưng cầu Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế xác định nguyên nhân chết đối với anh Nguyễn Đình H.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 297-16/TT ngày 09/11/2016, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định: Đa chấn thương nặng sọ não vỡ sập xương sọ, gãy xương lồng ngực… gây tử vong. Thương tổn tập trung hướng trước sau trải dài từ đầu xuống chân do lực ép và va đập tạo ra sau va chạm do tai nạn giao thông.
2. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não, ngực nặng do tai nạn giao thông.”
Ngày 28/3/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 38 đối với Trương B.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể số 92-17/TgT ngày 05/4/2017, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định: Đa vết sẹo phần mềm vùng đầu-mặt, cẳng tay: 08%. Chấn thương sọ não nứt sọ vùng trán, tụ khí nội sọ, di chứng rối loạn loạn thần thực tổn: 31%. Chấn thương gãy phức tạp 2 xương cẳng chân phải thẳng trục: 16%. Chấn thương gãy nhiều xương bàn và xương con bàn chân phải, gãy mắt cá trong chân phải làm bàn chân biến dạng ảnh hưởng chức năng khớp cổ chân và chức năng bàn chân: 25%. Cắt cục 1/3 giữa xương đùi trái: 65%.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể chung do thương tích gây nên hiện tại là: 86%.”
Ngày 28/3/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 39 đối với Trương B về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của bị can.
Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 554/KLGĐTC ngày 30/8/2017, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:
“a. Về mặt y học: Hội chứng sau chấn động não, mức độ suy nhược chấn thương (F07.2).
b. Về mặt pháp luật: Đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi.”
Ngày 24/8/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 132 đối với anh Nguyễn Văn K.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể số 282-17/GĐHS ngày 17/10/2017, Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương sọ não-gây xuất huyết dưới nhện đáp ứng điều trị nội khoa.
2. Tỷ lệ tổn thất sức khỏe chung là: 16%.”
Ngày 02/11/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà ra Quyết định Trưng cầu định giá số 176 để xác định giá trị thiệt hại thực tế của xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 72/KL-HĐĐGTS ngày 27/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hương Trà đã kết luận: Xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70 bị thiệt hại 289.720.000 đồng.
Vật chứng thu giữ gồm:
- Vật chứng đã trả lại cho chủ sở hữu:
+ 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 và sơmi rơmóoc biển kiểm soát 51R-127.12.
+ 01 giấy phép hạng FC mang tên Đặng Việt T.
+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 và 01 giấy chứng nhận đăng ký sơ mi rơ móoc biển kiểm soát 51R-127.12
+ 01 giấy chứng nhận kiểm định phương tiện xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 và 01 giấy chứng nhận kiểm định phương tiện sơ mi rơ móoc biển kiểm soát 51R-127.12.
+ 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70 và 01 giấy chứng nhận kiểm định phương tiện xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70.
- Vật chứng còn tạm giữ:
+ 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09.
+ 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Nguyễn Đình H.
Về trách nhiệm dân sự:
Đại diện gia đình bị hại ông Nguyễn Đình H1 (bố nạn nhân Nguyễn Đình H) yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần và nuôi cháu Nguyễn Khánh H, sinh năm 2005 đến 18 tuổi là 100.000.000 đồng. Người bị hại anh Nguyễn Văn K yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 366.720.000 đồng, gồm các khoản: Chi phí mai táng cho nạn nhân Nguyễn Đình H: 54.000.000 đồng; chi phí phát sinh sau tai nạn (tiền mua dàn cầu để thay, thuê xe cẩu về cơ quan công an, thuê xe chở hàng vào thành phố Hồ Chí Minh): 23.000.000 đồng; tiền bồi thường thiệt hại xe ô tô biển kiểm soát 36C-081.70: 289.720.000 đồng. Do không thỏa thuận được mức bồi thường thiệt hại nên phía chủ xe anh Nguyễn Đức T và bị cáo Trương B chưa bồi thường thiệt hại gì cho những người bị hại.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà đã quyết định:
-Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.
Xử phạt: Trương B 01 (Một) năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Thời hạn chấp hành hình phạt kể từ ngày bắt giam thi hành án.
- Về trách nhiệm dân sự :Áp dụng Điều 604, 605, 608, 609, 610, 623 của Bộ luật dân sự năm 2005, Mục III của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Tuyên buộc anh Nguyễn Đức T phải bồi thường cho ông Nguyễn Đình H1số tiền 100.000.000đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Văn K số tiền 366.720.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, quyền yêu cầu thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 29/11/2017, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm khoản tiền bồi thường thiệt hại.
Ngày 30/11/2017, bị cáo Trương B có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Ngày 01/12/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà kháng nghị tại Quyết định số 01/QĐ-VKS với nội dung: Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế sửa bản án sơ thẩm, xử bị cáo Trương B 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế giữ nguyên Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS ngày 01/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị và một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về biện pháp chấp hành hình phạt, xử bị cáo Trương B 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo; không chấp nhận kháng cáo của ông T về phần bồi thường thiệt hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần này.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo Trương B thừa nhận hành vi phạm tội của mình, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Ông Nguyễn Đức T đồng ý với bản án sơ thẩm về phần phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn K khoản chi phí mai táng cho nạn nhân Nguyễn Đình H 54.000.000 đồng và về phần phải bồi thường cho gia đình người bị hại Nguyễn Đình H khoản cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Khánh H và bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại 100.000.000 đồng. Ông Nguyễn Đức T chỉ kháng cáo đề nghị giảm phần bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn K, gồm: chi phí phát sinh sau tai nạn (tiền mua dàn cầu để thay, thuê xe cẩu về cơ quan công an, thuê xe chở hàng vào thành phố Hồ Chí Minh) là 23.000.000đồng và tiền bồi thường thiệt hại sửa chữa xe ô tô biển kiểm soát 36C-081.70 là 289.720.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đã có đủ cơ sở để xác định:
Khoảng 06 giờ 55 phút ngày 31/10/2016, Trương B có giấy phép lái xe hợp lệ hạng C, trực tiếp điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 chạy trên đường tránh Huế theo hướng Đà Nẵng - Đông Hà. Khi đến Km 5+520 đường tránh Huế thuộc địa phận phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, do vượt trái phép bên trái xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51C-321.54 kéo theo sơmi rơmooc đang chạy phía trước cùng chiều và đi qua phần đường ngược chiều nên đã để xe ô tô do B điều khiển va chạm với xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70 do anh Nguyễn Đình H trực tiếp điều khiển, trên xe có anh Nguyễn Văn K đang lưu thông theo hướng ngược lại làm xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 xoay ngang đường. Lúc này, xe ô tô đầu kéo kéo theo Sơmi rơ chạy từ phía sau tới va chạm vào phần đuôi của xe ô tô tải biển kiểm soát 75C-006.09 gây nên tai nạn giao thông. Hậu quả: Anh Nguyễn Đình H chết tại chỗ, ông Nguyễn Văn K bị thương tích với tỉ lệ tổn hại sức khỏe 16% và gây thiệt hại đối với xe ô tô tải 36C-081.70 là 289.720.000 đồng.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã vi phạm Khoản 1 Điều 9, Khoản 2 Điều 14 Luật gia thông đường bộ gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm một người chết, một người bị thương tích với tỉ lệ tổn hại sức khỏe 16% và gây thiệt hại đối với xe ô tô tải 36C-081.70 là 289.720.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo Trương B đã phạm vào tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 hành vi phạm tội của bị cáo chỉ phạm vào khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội để xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng: Đây là vụ án tai nạn giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng, nguyên nhân do lỗi hoàn toàn của bị cáo Trương B gây ra do vượt xe cùng chiều không bảo đảm an toàn và đi không đúng phần đường quy định.
Vì vậy, cần phải xử lý thích đáng để giáo dục và phòng ngừa. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trương B 01 năm tù là đúng mức, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; đã cân nhắc, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như đặc điểm nhân thân của bị cáo. Do vậy, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt tù.
[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng:
Trong vụ án này, nguyên nhân do lỗi hoàn toàn của bị cáo Trương B gây ra, hậu quả rất nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục, răn đe và phòng ngừa là đúng quy định của pháp luật và yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này hiện nay. Tuy nhiên, sau tai nạn, bản thân bị cáo cũng bị thương tích tỉ lệ tổn hại sức khỏe 86%, phải cắt cụt 1/3 giữa xương đùi trái, bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, có nơi cư trú rõ ràng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trương B đã tự nguyện hỗ trợ cho gia đình người bị hại Nguyễn Đình H số tiền 3 triệu đồng. Đây là tình tiết mới phát sinh sau khai xét xử sơ thẩm. Do vậy, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, để sửa bản án sơ thẩm về biện pháp chấp hành hình phạt tù, cho bị cáo được hưởng án treo để thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước.
[4] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Đức T xin giảm phần bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn K, gồm: chi phí phát sinh sau tai nạn (tiền mua dàn cầu để thay, thuê xe cẩu về cơ quan công an, thuê xe chở hàng vào thành phố Hồ Chí Minh) là 23.000.000đồng và tiền bồi thường thiệt hại sửa chữa xe ô tô biển kiểm soát 36C-081.70 là 289.720.000 đồng, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng:
Bị cáo Trương B là người lái xe thuê cho chủ phương tiện là ông Nguyễn Đức T, được trả tiền công hàng tháng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc chủ phương tiện là ông Nguyễn Đức T phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo Trương B là có căn cứ, đúng pháp luật. Phần này không có kháng cáo, kháng nghị.
Về khoản bồi thường thiệt hại sửa chữa xe ô tô biển kiểm soát 36C-081.70:
Sau tai nạn xảy ra, ngày 02/11/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định trưng cầu định giá số 176 để xác định giá trị thiệt hại thực tế của xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70. Tại bản kết luận định giá tài sản số 72/KL-HĐĐGTS ngày 27/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hương Trà đã kết luận: Xe ô tô tải biển kiểm soát 36C-081.70 bị thiệt hại 289.720.000 đồng. Việc định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hương Trà được tiến hành đúng quy định của pháp luật và kết quả định giá đã được thông báo cho ông Nguyễn Đức T biết, ông Nguyễn Đức T không có ý kiến gì.
Các chi phí phát sinh sau tai nạn 23.000.000 đồng, gồm: chi phí mua dàn cầu để thay, thuê xe cẩu về cơ quan công an, thuê xe chở hàng vào thành phố Hồ Chí Minh là đúng thực tế và đều có hóa đơn chứng từ hợp lệ.
Tòa án cấp sơ thẩm xử buộc ông Nguyễn Đức T phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn K chi phí phát sinh sau tai nạn 23.000.000 đồng và tiền bồi thường thiệt hại sửa chữa xe ô tô biển kiểm soát 36C-081.70 là 289.720.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đức T.
Ghi nhận bị cáo Trương B tự nguyện hỗ trợ cho gia đình người bị hại Nguyễn Đình H số tiền 3 (ba) triệu đồng, mà đại diện nhận là ông Nguyễn Đình H1 (bị cáo đã nộp theo biên lai số 004389 ngày 06/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế).
[5] Án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Trương B không phải chịu. Án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Đức T phải chịu 300.000 đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương B xin được hưởng án treo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, sửa bản án sơ thẩm về biện pháp chấp hành hình phạt tù. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương B xin giảm hình phạt tù, giữ nguyên bản án sơ thẩm về mức hình phạt. Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức T về phần bồi thường thiệt hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.
Xử phạt: Trương B 01 (Một) năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 2 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Trương B cho Ủy ban nhân dân phường Hương Văn, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
2. Về trách nhiệm dân sự : Áp dụng Điều 604, 605, 608, 609, 610, 623 của Bộ luật dân sự năm 2005, Mục III của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
Tuyên buộc ông Nguyễn Đức T phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn K chi phí phát sinh sau tai nạn 23.000.000 đồng, 289.720.000 đồng tiền bồi thường thiệt hại sửa chữa xe ô tô biển kiểm soát 36C-081.70, khoản chi phí mai táng cho nạn nhân Nguyễn Đình H 54.000.000 đồng, tổng cộng 366.720.000 đồng.
Tuyên buộc ông Nguyễn Đức T phải bồi thường khoản tiền cấp dưỡng, khoản bù đắp tổn thất tinh thần, tổng cộng 100.000.000đồng cho gia đình người bị hại Nguyễn Đình H, mà đại diện nhận là ông Nguyễn Đình H1.
Tuyên trả cho gia đình người bị hại Nguyễn Đình H, mà đại diện nhận là ông Nguyễn Đình H1 số tiền 3 (ba) triệu đồng bị cáo Trương B tự nguyện hỗ trợ (bị cáo đã nộp theo biên lai số 004389 ngày 06/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế).
3.Án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Trương B không phải chịu. án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Đức T phải chịu 300.000đ.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 31/2018/HS-PT ngày 07/03/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 31/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về