Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 24/05/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2018 VỀ XIN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 24 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở toà án nhân dân huyện A tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2018/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2011, về việc "ly hôn và tranh chấp nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 548/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt tại phiên toà.

-  Bị đơn: Anh Đào Xuân H, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Thôn Tân Trung, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07 tháng 01 năm 2018, và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện A, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày: 

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D và anh Đào Xuân H kết hôn với nhau năm vào 2008, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 10 năm 2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn Tân Trung, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do, anh H chơi bời, không quan tâm đến vợ con, chị D nhiều lần gặp anh H chở người phụ nữ khác, vợ chồng thường xuyên cãi, chửi nhau, gia đình, chính quyền địa phương đã nhiều lần hòa giải, nhưng không có kết quả, từ tháng 10 năm 2015 chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Q sinh sống từ đó vợ chồng ly thân nhau, không quan tâm đến nhau.

Tháng 07 năm 2016 chị D làm đơn xin ly hôn với anh H, tại bản án số 40/2016/HNGĐ-ST, ngày 21 tháng 9 năm 2016, của Tòa án nhân dân huyện A và tại bản án số 01/2017/HNGĐ-PT, ngày 05 tháng 01 năm 2017, của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D. Nhưng từ đó đến nay, tình trạng hôn nhân của chị D và anh H vẫn không được cải thiện, vợ chồng vẫn sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Nguyễn Thị D thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ, nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện A giải quyết cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Đào Xuân H.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Đào Xuân H có 02 con chung là Đào Tuấn H', sinh ngày 26 tháng 8 năm 2009, Đào Quỳnh A, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2011, ly hôn, chị D đề nghị được nuôi Đào Quỳnh A, để anh H nuôi con Đào Tuấn H'. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

3. Tài sản chung, công nợ và các vấn đề khác: Chị Nguyễn Thị D trình bày chị và anh H tự thoả thuận với nhau không yêu cầu toà án giải quyết.

Bị đơn anh Đào Xuân H đã được Tòa án nhiều lần triệu tập đến Tòa để giải quyết vụ án, nhưng đều vắng mặt, không có ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị D.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị D có đơn khởi kiện về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con, anh Đào Xuân H là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn đã cơ bản thực hiện đúng các quvền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bị đơn anh Đào Xuân H không đến tham gia tố tụng tại tòa, không có lý do, là đã không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đề nghị giải quyết chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Đào Xuân H, giao cho chị Nguyễn Thị D được nuôi Đào Quỳnh A, giao cho anh Đào Xuân H được nuôi con Đào Tuấn H', không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào, chị Nguyễn Thị D phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc vắng mặt của bị đơn anh Đào Xuân H: Anh Đào Xuân H đãđược Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai, nhưng đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh H theo thủ tục chung.

- Về yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị D:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D kết hôn với anh Đào Xuân H, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 10 tháng 10 năm 2008, tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, Hải Phòng, căn cứ vào khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình đây xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống trên cơ sở biên bản xác minh của Tòa án (bút lục từ 41 đến 49) thấy: Trong thời gian chung sống chị Nguyễn Thị D và anh Đào Xuân H đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, không thông cảm, tin tưởng chia sẻ với nhau, anh H ít quan tâm đến gia đình vợ con, chị D nghi ngờ anh H có quan hệ với người phụ nữ khác, vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, dẫn đến tình trạng cuộc sống chung của vợ chồng luôn nặng nề, căng thẳng, mâu thuẫn kéo dài, mặc dù gia đình, khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, từ tháng 10 năm 2015 chị D đã bỏ về nhần bố mẹ để sinh sống và tháng  07  năm 2016  chị  D xin lyhôn với anh  H, tại tại bản án số 40/2016/HNGĐ-ST, ngày 21 tháng 9 năm 2016, của Tòa án nhân dân huyện A và tại bản án số 01/2017/HNGĐ-PT, ngày 05 tháng 01 năm 2017, của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D. Nhưng từ đó đến nay, tình trạng hôn nhân của chị D và anh H vẫn không được cải thiện, vợ chồng vẫn sống ly thân nhau, khôngai quan tâm đến ai. Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình, xác định mâu thuẫn của chị D và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị Nguyễn Thị D xin ly hôn anh H là có căn cứ, phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Đào Xuân H.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Đào Xuấn H có 02 con chung là Đào Tuấn H', sinh ngày 26 tháng 8 năm 2009, Đào Quỳnh A, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2011. Chị Nguyễn Thị D có nguyện vọng được nuôi con Đào Quỳnh A, để anh H nuôi con Đào Tuấn H'. Xét cháu H', cháu Quỳnh A đều đã trên 07 tuổi, cháu H' đang được anh H nuôi dưỡng, cháu Quỳnh A đang được chị D nuôi dưỡng, cháu H' có đơn xin được ở với anh H, cháu Quỳnh A có đơn xin được ở với chị D. Nên căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Đào Quỳnh A cho chị D nuôi dưỡng, cháu Đào Tuấn H' cho anh H nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên không xét.

[4] Về tài sản chung, công nợ và các vấn đề khác: Các đương sự không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm. Vì lẽ các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào quy định tại các điều 19, 51, 53, 56, 57 và Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1- Chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Đào Xuân H;

2- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị D được quyền nuôi dưỡng con Đào Quỳnh A, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2011; anh Đào Xuân H được nuôi con Đào Tuấn H', sinh ngày 26 tháng 8 năm 2009, đến khi các con đủ 18 tuổi, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0002771 ngày 11 tháng 01 năm 2018, của Chi cục Thi hành án huyện A, chị D đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo bản án:

Chị Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Đào Xuân H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 24/05/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về