TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ NGÀY 04/06/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON,CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 04 tháng 6 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 129/2018/TLST – HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Bích V, sinh năm 1962; đăng ký thường trú tại: Số 33/69 (nay là 9/3/69) Chợ C, phường Trại C, Quận L C, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1958; đăng ký thường trú tại: Số 33/69 (nay là 9/3/69) Chợ C, phường Trại C, Quận L C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, các lời khai của bà Ngô Thị Bích V có trong hồ sơ và tại phiên tòa thể hiện:
Bà Ngô Thị Bích V và ông Nguyễn Văn Th xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện vào năm 1986, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường DH, quận L C, thành phố Hải Phòng ngày 12/12/1986.
Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc, đến năm 2000 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và cách sống, hai bên thường xuyên xảy ra xô xát, cự cãi. Vào năm 2001 và năm 2015 Bà V đã từng làm đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân Quận Lê Chân nhưng đều dược Tòa án hòa giải nên Bà V rút đơn về để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên mâu thuẫn vợ chồng lại ngày càng căng thẳng trầm trọng, vợ chồng không tin tưởng nhau về tình cảm. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2017, không còn quan tâm trách nhiệm với nhau nữa nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Nguyễn Văn Th.
Về con chung: Bà V và ông Th có 02 con chung tên là Nguyễn Thị T U, sinh ngày 02/4/1987 và Nguyễn Thị MV, sinh ngày 31/8/1993. Đến nay đều đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Bà V trình bày hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn Th vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông Th và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông Th nhưng ông Th không có mặt tại Tòa án. Tại biên bản ghi lời khai đương sự ngày 17/4/2018 tại gia đình ông Th trình bày: Ông và Bà V kết hôn trên cơ sở tự nguyện năm 1986, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường DH, đến nay có 02 con chung. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, không xảy ra mâu thuẫn gì lớn. Đến cuối năm 2017 Bà V có ý nghi ngờ ghen tuông, cho rằng ông có quan hệ với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cự cãi, căng thẳng. Trước đó vào năm 2001 và năm 2015 Bà V cũng đã từng làm đơn xin ly hôn ra Tòa án nhân dân Quận Lê Chân nhưng sau đó vợ chồng lại trở về đoàn tụ. Đến nay Bà V có đơn xin ly hôn, quan điểm của ông là không đồng ý ly hôn, mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng để đoàn tụ, nếu Bà V cương quyết muốn ly hôn thì ông đồng ý nhưng sẽ không đến Tòa án. Về con chung: Bà V và ông Th có 02 con chung tên là Nguyễn Thị T U, sinh ngày 02/4/1987 và Nguyễn Thị MV , sinh ngày 31/8/1993 đến nay đều đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận.
Tại biên bản xác minh tại nơi cư trú vợ chồng thể hiện: Cuộc sống chung giữa Bà V và ông Th có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên không tìm được tiếng nói chung. Bà V đã nhiều lần làm đơn xin ly hôn nhưng sau đó lại rút đơn về. Hiện nay hai vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt.
Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục về pháp luật tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn chấp hành đúng các quy định về tố tụng, bị đơn không chấp hành các quy định về pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án: Bà V và ông Th kết hôn vào năm 1986 và thực hiện việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường DH, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 1986 nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp.
Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho Bà V được ly hôn ông Th theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Bà V và ông Th có 02 con chung tên là Nguyễn Thị T U, sinh ngày 02/4/1987 và Nguyễn Thị MV , sinh ngày 31/8/1993. đến nay đều đã thành niên nên không xem xét.
Về tài sản chung: Bà V không có yêu cầu nên không xem xét.
Về án phí: Bà V phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:
[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện và biên bản xác minh tại nơi cư trú thể hiện: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1958; đăng ký thường trú tại: Số 33/69 (nay là 9/3/69) Chợ C, phường Trại C, Quận L C, thành phố Hải Phòng. Căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa nguyên đơn là bà Ngô Thị Bích V và ông Nguyễn Văn Th thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt tại Tòa án nên không thể tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.
Tại phiên tòa, bị đơn là ông Nguyễn Văn Th vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai. Bởi vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Văn Th.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị Bích V và ông Nguyễn Văn Th kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường DH, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 1986 nên là hôn nhân hợp pháp.
Quá trình chung sống: Bà V và ông Th nảy sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không tin tưởng nhau về mặt tình cảm. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn trầm trọng nên từ cuối năm 2017 đến nay hai bên đã sống ly thân, không quan tâm trách nhiệm đến nhau về mọi mặt. Mặt khác, qua xác minh tại gia đình, nơi cư trú của Bà V và ông Th cho thấy mâu thuẫn giữa ông bà đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Bởi vậy, Bà V yêu cầu được ly hôn với ông Th là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Bà V và ông Th có 02 con chung tên là Nguyễn Thị T U, sinh ngày 02/4/1987 và Nguyễn Thị MV , sinh ngày 31/8/1993. đến nay đều đã thành niên nên HĐXX không xét.
[4] Về tài sản chung: Bà Ngô Thị Bích V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Bà V phải nộp 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; Điều 147; Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51; 56; 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
Bà Ngô Thị Bích V được ly hôn ông Nguyễn Văn Th.
Về án phí: Bà Ngô Thị Bích V phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bà V đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005136 ngày 20 tháng 3 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 31/2018/HNGĐ ngày 04/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
Số hiệu: | 31/2018/HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/06/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về