Bản án 311/2021/HC-PT ngày 25/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính việc cho thuê đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 311/2021/HC-PT NGÀY 25/05/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VIỆC CHO THUÊ ĐẤT

 Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:137/2021/TLPT-HC ngày 05/02/2021 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cho thuê đất” .

Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 78/2020/HC-ST ngày 27/10/2020 của Tòa án Nhân dân tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 488/2021/QĐPT-HC ngày 10 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

* Người khởi kiện:

1. Bà Hồ Thị H, sinh năm 1979. Địa chỉ: , tỉnh Kiên Giang.

Địa chỉ liên hệ: tỉnh Kiên Giang.

2. Bà Trần Thị Bích T, sinh năm 1977.

Địa chỉ: , tỉnh Kiên Giang.

Địa chỉ liên hệ: , tỉnh Kiên Giang.

3. Ông Hứa Văn P, sinh năm 1982.

Địa chỉ: ấp Ông Lang, , tỉnh Kiên Giang.

Địa chỉ liên hệ: , huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Địa chỉ: A, tỉnh Hậu Giang.

4. Ông Hoàng Văn K, sinh năm 1980. Địa chỉ: , tỉnh Kiên Giang.

Địa chỉ liên hệ: , huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

- Người đại diện theo ủy quyền của bà H, bà T, ông K và ông P: Ông Lâm Quốc C, sinh năm 1996 (Có mặt).

Địa chỉ: tỉnh Hậu Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho của bà H, bà T, ông K và ông P: Luật sư Ngô Văn Định, Công ty Luật TNHH Hãng Luật Hiệp Định, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt) 5. Ông Lê Văn H, sinh năm 1964. (Có mặt). Địa chỉ: Ấp Cây Thông Ngoài, , tỉnh Kiên Giang.

6. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1972. (Có mặt). Địa chỉ: huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà V : ông Danh Cam Pu C, sinh năm 1982 (Có mặt);

Địa chỉ : Kiên Giang.

7. Bà Bùi Thị H2, sinh năm 1971. (Có mặt).

Địa chỉ: Tổ 4, khu phố 3, thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

8. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1985. (Có mặt). Địa chỉ: , huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

9. Bà Trương Thị Lập E, sinh năm 1982. (Có mặt).

Địa chỉ: , tỉnh Kiên Giang 10. Bà Nguyễn Thị H3, sinh năm 1971. (Có mặt). Địa chỉ: , tỉnh Kiên Giang.

11. Bà Lê Thị C, sinh năm 1963. (Có mặt).

Địa chỉ: , tỉnh Kiên Giang.

12. Bà Phạm Thị S, sinh năm 1980. Địa chỉ: Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà S : bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1985. Địa chỉ: Khu phố 3, phường An Thới, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Có mặt.

13. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1961. (Vắng mặt) - Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị B: Bà Huỳnh P Đầy, sinh năm:1986. (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

* Người bị kiện: Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh T, chức vụ: Trưởng ban. (Vắng mặt)

- Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Phan Văn C, chức vụ: Phó trưởng ban. Có mặt Địa chỉ: , huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban Nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Quang H, chức vụ: Chủ tịch. (Có văn bản xin xét xử Vắng mặt)

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Chiến T, chức vụ: Phó chủ tịch. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 04 đường 30/4, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

2. Công ty Cổ phần M.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Đăng T, chức vụ: Giám đốc. (Vắng mặt) Địa chỉ: , tỉnh Kiên Giang.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Nhân H, sinh năm 1979. (có mặt) Địa chỉ: 56p, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện: bà Hồ Thị H, bà Trần Thị Bích T, ông Hoàng Văn K, ông Hứa Văn P, bà Nguyễn Thị V, ông Lê Văn H, bà Bùi Thị H2, bà Nguyễn Thị N, bà Trương Thị Lập E, bà Nguyễn Thị H3, bà Lê Thị C, bà Phạm Thị S và bà Nguyễn Thị B cùng trình bày như sau:

Các ông bà nêu trên có diện tích đất tại ấp Đường Bào, xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ cụ thể như sau:

1. Bà Hồ Thị H diện tích: 2.000m2.

2. Ông Hoàng Đăng K diện tích: 2.750m2.

3. Ông Hứa Văn P diện tích: 5.200m2.

4. Bà Nguyễn Thị V diện tích: 10.467,12m2 5. Ông Lê Văn H diện tích: 9.000m2.

6. Bà Nguyễn Thị N diện tích: 4.388,36m2.

7. Bà Bùi Thị H2 diện tích: 2.000m2.

8. Bà Nguyễn Thị H3 diện tích: 2.000m2 9. Bà Phạm Thị S diện tích: 4.250m2.

10. Bà Lê Thị C diện tích: 5.000m2.

11. Bà Trương Thị Lập E diện tích: 2.550m2.

12. Bà Nguyễn Thị B diện tích: 2.720m2 13. Bà Trần Thị Bích T diện tích: 3.287,43m2.

Toàn bộ diện tích đất của những người khởi kiện đều có thành quả lao động. Nguồn gốc đất do nhận chuyển nhượng của các hộ đã khai phá và sử dụng trước đây. Từ khi nhận chuyển nhượng các đương đã quản lý và sử dụng liên tục từ năm 2015. Năm 2016 được UBND xã đo đạc, kiểm điếm và lập biên bản xác định cụ thể về diện tích và tài sản trên đất. Năm 2018 Công ty Cổ phần M vào khu đất của các đương sự làm thay đổi hiện trạng đất của họ nên đã xảy ra tranh chấp.

Qua tìm hiểu những người khởi kiện được biết toàn bộ diện tích đất của 13 hộ Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc đã lập thủ tục cho Công ty Cổ phần M thuê tại Quyết định số 107/QĐ-BQLKKTPQ ngày 08/5/2018.

Những người khởi kiện cho rằng diện tích đất của họ chưa bị UBND huyện Phú Quốc ra Quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư… theo định của Luật đất đai; Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc ra quyết định cho Công ty Cổ phần M thuê đất khi đất do 13 hộ dân đang quản lý là trái pháp luật.

Những người khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 107/QĐ- BQLKKTPQ ngày 08 tháng 5 năm 2018 của Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Trong quá trình giải quyết vụ kiện Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc có văn bản xác định như sau:

Căn cứ Quyết định số 42/2007/ QĐ-TTg, ngày 29/3/2007 của Thủ tướng Chính về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý đầu tư phát triển đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang (nay là Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc).

Căn cứ Quyết định số 2394/2008/ QĐ-UB, ngày 06/10/2008 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành qui chế phối hợp giữa Ban Quản lý đầu tư phát triển đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang với các ban, ngành huyện Phú Quốc, tại Điều 12 và Điều 15 quy định:

Ban Quản lý đầu tư phát triển đảo Phú Quốc tổ chức tiếp nhận, thẩm định và quyết định việc giao lại đất có thu tiền sử dụng đất hoặc không thu tiền sử dụng đất; cho thuê đất, mặt nước đối với các dự án đầu tư thuộc phân khu chức năng thuộc thẩm quyền của Ban quản lý cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất theo quy định của pháp luật tương ứng về đất đai.

Trên cơ sở Quyết định số 2394/2008/ QĐ-UB, Quản lý khu kinh tế Phú Quốc, được UBND huyện Phú Quốc bàn giao diện tích đất đã bồi thường, giải phóng mặt bằng tại xã Dương Tơ huyện Phú Quốc để thực hiện chức năng nhiệm vụ giao lại đất, cho thuê đất để Công ty cổ phần M triển khai thực hiện dự án theo qui hoạch chi tiết đã phê duyệt là phù hợp theo qui định.

- Đại diện UBND huyện Phú Quốc: Thừa nhận diện tích đất của những người khởi kiện nêu trong đơn đến thời điểm hiện nay UBND huyện Phú Quốc chưa lập thủ tục thu hồi. Trước khi gởi đơn đến Tòa án thì những hộ dân này đã có đơn khiếu nại gửi cho UBND huyện Phú Quốc, Chủ tịch UBND huyện đã có cuộc đối thoại với những người khiếu nại. Ngày 29/7/2020 UBND huyện Phú Quốc có Công văn số 2485/VP-NCPC giao cho Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Phú Quốc, UBND xã Dương Tơ thực hiện thủ tục lập phương án bồi thường theo qui định của pháp luật.

- Đại diện Công ty cổ phần M trình bày: Diện tích đất cho Công ty cho thuê tại Quyết định 107/QĐ-BQLKKT thuộc thửa đất số 2522 - 2527 tờ trích đo địa chính số 230 - 2018. Công ty đã thực hiện nghĩa vụ tài chính và nhận bàn giao đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số: 78/2020/HC-CT ngày 27/10/2020 của Tòa án Nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị H, bà Trần Thị Bích Thuỷ, ông Hoàng Văn K, ông Hứa Văn P, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị V, bà Bùi Thị H2, bà Nguyễn Thị N, bà Trương Thị Lập E, bà Nguyễn Thị H3, bà Lê Thị C, bà Pham Thị S và bà Nguyễn Thị B.

- Hủy Quyết định số 107/QĐ-BQLKKTPQ ngày 08 tháng 5 năm 2018 của Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang;

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/11/2020 người bị kiện là trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc sửa bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của 13 người khởi kiện vì Quyết định 107/QĐ-BQLKKTPQ ngày 08/5/2018 là đúng quy định pháp luật.

- Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người bị kiện giữ nguyên nội dung kháng cáo như nêu trên, người khởi kiện và người bị kiện không cung cấp thêm chứng cứ gì mới.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện phát biểu:

Về thẩm quyền: Ban quản lý khu kinh tế là có thẩm quyền ký cho thuê đất nhưng việc cá nhân trưởng ban quản lý khu kinh tế ký quyết định cho công ty M thuê đất là không đúng.

Về nội dung: Theo các quy định của pháp luật đất đai thì khi thu hồi đất phải xem xét bồi thường, hỗ trợ theo quy định, trong khi Uỷ ban huyện Phú Quốc xác định 13 hộ dân bị ảnh hưởng của dự án chưa có quyết định thu hồi đất, chưa được xem xét bồi thường đất và tài sản trên đất. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người bị kiện. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện diện tích đất của 13 hộ dân trong tổng diện tích hơn 379.000m2 thì Uỷ ban Nhân dân xã đã lập phương án kiểm kê, bồi thường nên việc Ban quản lý khu kinh tế cho công ty M thuê đất là trái pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm huỷ Quyết định số 107 của Trưởng ban quản lý Khu kinh tế là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người bị kiện. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định nên kháng cáo của Trưởng Ban quản lý được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về đối tượng khởi kiện, về thẩm quyền xét xử, về thời hiệu khởi kiện như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng quy định pháp Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

[3] Căn cứ vào tiểu mục 2.10 Mục 2 Điều 1 của Quyết định số 2955/QĐ- UBND ngày 02 tháng 12 năm 2015 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang “quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang”, quy định thẩm quyền cho thuê đất là của Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc. Do đó, Trưởng ban Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc ký Quyết định 107/QĐ-BQLKKTPQ cho Công ty Cổ phần Miltơn thuê đất là không đúng thẩm quyền.

[4] Ngày 08 tháng 5 năm 2018 Trưởng ban Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc ban hành Quyết định số 107/QĐ-BQLKKTPQ về việc cho thuê đất đối với Công ty Cổ phần M để sử dụng vào mục đích đất thương mại, dịch vụ (dự án Làng du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Châu Âu) tại khu phức hợp Bãi Trường, xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Diện tích cho thuê 379.900,3m2, thời hạn thuê đến ngày 16 tháng 6 năm 2065.

[5] Căn cứ vào Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 18 tháng 5 năm 2020 của TAND tỉnh Kiên Giang (kèm theo tờ trích đo thửa đất), lời trình bày của đại diện Công ty cổ phần M, sơ đồ hiện trạng M của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường thì diện tích đất của 13 người khởi kiện đều nằm trong diện tích đất 379.900,3m2 mà Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc cho Công ty cổ phần M thuê tại Quyết định 107/QĐ-BQLKKT. Theo biên bản kiểm kê diện tích đất đai, cây trồng vật kiến trúc do ban bồi thường hỗ trợ và tái định cư huyện Phú Quốc lập năm 2016 đối với 13 hộ dân nêu trên thì đều thể hiện nguồn gốc đất là sang nhượng năm 2015 và trên đất có trồng cây lâu năm.

Quá trình tham gia tố tụng, UBND huyện Phú Quốc thừa nhận diện tích đất của những người khởi kiện nêu trong đơn đến thời điểm hiện nay UBND huyện Phú Quốc chưa lập thủ tục thu hồi và bồi thường theo quy định của pháp luật đất đai. Do đó, Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc ban hành Quyết định cho Công ty cổ phần M thuê diện tích đất của 13 người khởi kiện khi UBND huyện Phú Quốc chưa thực hiện thủ tục thu hồi đất đối với 13 người khởi kiện là trái pháp luật. Vì vậy Toà án cấp sơ thẩm xét xử huỷ Quyết định 107/QĐ-BQLKKT ngày 08/5/2018 của Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc là có căn cứ. Tại phiên toà hôm nay Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc không cung cấp được chứng cứ gì mới có thể làm thay đổi quyết định của bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[7] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc phải chịu tiền án phí hành chính phúc thẩm theo quy định.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị bác kháng cáo của người bị kiện. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng Hành chính.

Căn cứ Điều 53; Điều 69; Điều 151 Luật đất đai 2013; Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai”;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc.

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Hồ Thị H, bà Trần Thị Bích T, ông Hoàng Văn K, ông Hứa Văn P, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị V, bà Bùi Thị H2, bà Nguyễn Thị N, bà Trương Thị Lập E, bà Nguyễn Thị H3, bà Lê Thị C, bà Phạm Thị S và bà Nguyễn Thị B.

- Hủy Quyết định số 107/QĐ-BQLKKTPQ ngày 08 tháng 5 năm 2018 của Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc phải nộp 300.000 đồng.

* Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho những người khởi kiện.

- Ông Hứa Văn P 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004651 ngày 10/5/2019.

- Bà Trần Thị Bích T 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001365 ngày 02/4/2019.

- Bà Hồ Thị H 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001365 ngày 02/4/2019.

- Ông Lê Văn H 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004693 ngày 04/7/2019.

- Ông Hoàng Văn K 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001363 ngày 04/4/2019.

- Bà Nguyễn Thị V 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004682 ngày 12/6/2019.

- Bà Nguyễn Thị N 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007104 ngày 10/7/2019.

- Bà Bùi Thị H2 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007108 ngày 10/7/2019.

- Bà Nguyễn Thị H3 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007109 ngày 10/7/2019 - Bà Phạm Thị S 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007103 ngày 10/7/2019.

- Bà Trương Thị Lập E 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007108 ngày 10/7/2019.

- Bà Lê Thị C 300.00 đồng theo biên lai thu số 0007107 ngày 10/7/2019.

- Bà Nguyễn Thị B 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007105 ngày 10/7/2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.

3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Trưởng Ban Quản lý khu Kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang phải chịu 300.000 đồng, số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0009454 ngày 20/11/2020 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Kiên Giang được khấu trừ vào phần án phí phải chịu.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

429
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 311/2021/HC-PT ngày 25/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính việc cho thuê đất

Số hiệu:311/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về