TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 311/2020/HS-PT NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 179/2020/TLPT-HS ngày 05 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo Lê Quốc T, Nguyễn Minh T1 về tội “Giết người”, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HS-ST ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Lê Quốc T (thường gọi là Biển), sinh ngày: 02/10/2001 (thời điểm phạm tội 16 tuổi 8 tháng 24 ngày); nơi sinh: Khánh Hòa; nơi cư trú: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 03/12; nghề nghiệp: Không; cha: (Không rõ); mẹ: Lê Thị Kim L, sinh năm: 1978; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
2. Nguyễn Minh T1, sinh ngày: 04/02/2002 (thời điểm phạm tội 16 tuổi 4 tháng 22 ngày); nơi sinh: Khánh Hòa; nơi cư trú: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Không; cha: Nguyễn Minh H, sinh năm: 1975; mẹ: Phạm Thị Thanh V, sinh năm: 1979; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Lê Quốc T: Luật sư Lê Phương T, Văn phòng Luật sư Lê Văn T và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa (có mặt).
Địa chỉ: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyên Minh T1: Luật sư Cao Như Y, Công ty Luật TNHH N, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa (có mặt).
Địa chỉ: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
- Bị hại: Anh Nguyễn T2, sinh năm 2000; cư trú tại: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Thanh V, sinh năm 1979; cư trú tại: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 25/6/2018, trong lúc đá banh tại sân cỏ nhân tạo ở khu vực L thuộc V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, Đỗ Nguyễn Thành T4 xảy ra mâu thuẫn đánh nhau với Đinh Mạnh Đ (B). Sau đó, T4 rủ thêm các đối tượng Lê Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn H, Đỗ Hồ Bảo Q (em trai của T4), Lê Quốc T (B), Mai T1 V, Nguyễn Minh T1 và 03 đối tượng (chưa xác định nhân thân lai lịch) đi tìm đánh lại Đ.
Khoảng 18h00 ngày 26/6/2018, nhóm T4 tập trung tại khu vực L, T4 nói với Văn H và Võ Ngọc Tường H chuẩn bị 02 cây mác để đi đánh nhau. Sau đó, T4 nói cả nhóm đi xuống khu vực C thuộc đường H để tìm đánh nhóm của Đ, thấy nhóm của Đ ở đâu thì đánh ở đó thì cả nhóm đều đồng ý. H điều khiển xe máy chở T4 và T cầm 01 cây mác, Q điều khiển xe máy chở V cầm 01 cây mác, T1 điều khiển xe máy chở Đ và B và 03 đối tượng đi cùng không rõ lai lịch đi một xe máy đến khu vực C thuộc đường H, phường VT, thành phố N. Khi đến nhà số 109 H, phường VT, thành phố N, thì nhóm T4 thấy 01 nhóm thanh niên đang ngồi ghế nhựa xem đá banh trên tivi trước sân nhà, trong đó có Nguyễn T2, T4 la lên: “Tụi nó kìa” thì tất cả xuống xe. T4, T, V chạy xông vào đuổi đánh T2 và số thanh niên đang xem đá banh (còn H, Q, T1, B, Đ đứng bên ngoài). T4 cầm ghế nhựa, T cầm mác, V cầm mác rượt đuổi T2 bỏ chạy vào trong nhà 109 H, đến trước cửa nhà vệ sinh thì đuổi kịp, T cầm mác chém 01 nhát trúng đầu T2, T2 ngã xuống thì T4 cầm ghế nhựa, T cầm mác, V cầm mác đánh chém liên tiếp nhiều cái vào người T2 cho đến khi T2 nằm bất động. Sau đó, nhóm T4 ném mác lại và bỏ chạy thì bị 01 thanh niên (chưa rõ nhân thân) cầm mác rượt theo chém V, T gây thương tích. Sau khi bị thương Nguyễn T2 được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 201/TgT ngày 04/7/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận thương tích của Nguyễn T2 gồm: 01 vết thương có kích thước lớn và 02 vết thương có kích thước nhỏ. Tỷ lệ thương tật: 09%; tụ khí và máu ngoài màng cứng thái dương phải, tụ khí trán phải, vỡ xương thái dương đỉnh phải. Tỷ lệ thương tật: 25%. Thực hiện nguyên tắc cộng lùi, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 32%.
Đối với Võ Ngọc Tường H hiện nay không có mặt tại địa phương, gia đình không biết đi đâu, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa chưa có căn cứ để khởi tố bị can, đang tiếp tục truy tìm và xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra còn 03 đối tượng là H (Ếch con), Luân và Hoài, đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa vẫn chưa xác định được lai lịch, nhân thân nên chưa có căn cứ để xử lý. Khi nào xác định được các đối tượng nêu trên thì sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HS-ST ngày 12/3/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 91, Điều 101, Điều 102 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Lê Quốc T, Nguyễn Minh T1.
Áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Minh T1.
Xử phạt bị cáo Lê Quốc T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T1 03 (ba) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Bản án sơ thẩm còn xử phạt 06 bị cáo khác cùng về tội danh trên với mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 06 năm 06 tháng tù.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/3/2020, bị cáo Lê Quốc T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 20/3/2020, bị cáo Nguyễn Minh T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.
Ngày 17/3/2020 bà Phạm Thị Thanh V (mẹ bị cáo Nguyễn Minh Tiến) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Minh Tiến và cho hưởng án treo.
Ngày 17/3/2020, người bị hại Nguyễn T2 kháng cáo nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Minh Tiến và cho hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư Lê Phương T bào chữa cho bị cáo Lê Quốc T trình bày:
Bị cáo sinh ra trong gia đình có người mẹ đơn thân, tuổi còn nhỏ nên nhận thức pháp luật hạn chế, phạm tội do bị rủ rê, khi phạm tội chỉ mới 16 tuổi 8 tháng, bị cáo khai báo thành khẩn và tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo.
Luật sư Cao Như Y bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh T1 trình bày:
Bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm, thứ yếu, chỉ đi theo nhóm bạn, không mang theo hung khí. Khi đến khu vực C thuộc đường H, bị cáo chỉ đứng xem và không nói gì tác động đến các bị cáo khác. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù là nặng so với mức độ đồng phạm. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo nộp chứng cứ bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ mới là gia đình có công cách mạng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã qui kết. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có cơ sở xác định: Khoảng 18h00 ngày 26/6/2018, Đỗ Nguyễn Thành T4 đã rủ và nói với cả nhóm gồm Lê Quốc T, Mai T1 V, Nguyễn Văn H, Đô Hô Bảo Q, Lê Nguyễn Văn B, Nguyễn Minh T1, Nguyễn Văn Đ đi xuống khu vực C thuộc đường H để tìm đánh nhóm của Đinh Mạnh Đ (tức Bi mén), thì cả nhóm đều đồng ý. H điều khiển xe máy chở T4 và Tuân cầm 01 cây mác, Q điều khiển xe máy chở V cầm 01 cây mác, T1 điều khiển xe máy chở Đ và B. Khi đến nhà số 109 H, phường VT, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, cả nhóm thấy 01 nhóm thanh niên đang ngồi xem tivi trước sân nhà, T4 tưởng nhóm Bi mén, nên la lên rồi cùng T và V xuống xe cầm hung khí xông vào đuổi đánh số thanh niên này. Trong số đó có anh Nguyên T2 bỏ chạy vào trong nhà, bị vấp ngã nên bị T4 cầm ghế nhựa, T cầm mác, V cầm mác đánh chém liên tiếp nhiều cái vào đầu và người anh T2 làm cho anh T2 bị bất tỉnh. Trong lúc T4, T, V đánh, chém anh T2 thì các bị cáo H, Q, B, T1, Đ đứng ở ngoài chờ đồng bọn. Anh T2 bị thương với tỷ lệ thương tích 32%.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo Lê Quốc T, Nguyễn Minh T1 và kháng cáo của người bị hại ông Nguyễn Tứ và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thanh V xin giảm hình phạt cho các bị cáo, thấy rằng:
[4] Giữa các bị cáo và người bị hại không có mâu thuẫn với nhau, chỉ vì động cơ thù tức cá nhân mà các bị cáo đã rủ nhau đi tìm đánh người khác, sử dụng hung khí nguy hiểm (mác) chém nhiều nhát vào người bị hại và cầm ghế đánh người bị hại, trong đó có nhát chém trúng vào đầu bị hại, gây vỡ xương thái dương đỉnh phải, tụ khí và máu ngoài màng cứng thái dương phải, tụ khí trán phải; hành vi của các bị cáo có thể tước đoạt mạng sống của người bị hại.
[5] Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như: khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội, đã áp dụng đường lối xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội đối với các bị cáo; các bị cáo phạm tội chưa đạt (hậu quả chết người chưa xảy ra), chưa có tiền án, tiền sự, đã bồi thường cho người bị hại và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
[6] Bị cáo Lê Quốc T tham gia tội phạm với vai trò là người thực hành tích cực, nghe bị cáo T4 rủ đánh nhau, bị cáo đã rủ thêm các bị cáo khác, trực tiếp cầm mác xông vào đuổi chém bị hại và gây ra hậu quả tội phạm. Mặc dù, bị hại đã nói “nhầm người rồi” nhưng bị cáo vẫn chém nhiều nhát vào đầu và người của bị hại làm cho bị hại bất tỉnh. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức hình phạt 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt.
[7] Đối với bị cáo Nguyễn Minh T1 tham gia tội phạm với vai trò là người giúp sức. Khi nghe bị cáo T4 rủ đi đánh nhau, bị cáo đã đồng ý tham gia mặc dù không biết mặt người bị hại. Tuy bị cáo T1 không trực tiếp gây thương tích cho người bị hại, nhưng khi thấy các bị cáo T4, T, V cầm hung khí nguy hiểm xông vào đuổi, đánh người bị hại, bị cáo đã không can ngăn đồng bọn mà lại đứng ở bên ngoài chờ. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấp hơn và xử phạt bị cáo 03 năm tù là tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo nộp tài liệu chứng cứ chứng minh gia đình có công cách mạng. Tuy nhiên, do đồng phạm với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của người bị hại ông Nguyễn Tứ và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thanh V xin giảm hình phạt cho bị cáo và hưởng án treo.
[8] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm do không phù hợp với phân tích và nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[9] Các bị cáo và những người kháng cáo khác không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[10] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Quốc T, Nguyễn Minh T1;
Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại ông Nguyễn Tứ và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thanh V;
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HS-ST ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 91, Điều 101, Điều 102 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Lê Quốc T, Nguyễn Minh T1.
Áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Minh T1.
Xử phạt bị cáo Lê Quốc T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T1 03 (ba) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Án phí:
Bị cáo Lê Quốc T, Nguyễn Minh T1 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, mỗi người 200.000đ.
Ông Nguyễn Tứ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000đ.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 311/2020/HS-PT ngày 30/09/2020 về tội giết người
Số hiệu: | 311/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về