Bản án 310/2018/HS-ST ngày 23/10/ 2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 310/2018/HS-ST NGÀY 23/10/ 2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 313/2018/TLST- HS ngày 03 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 325/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Minh N, sinh năm 1985 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: 17/2A đường Đặng Văn M, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ hàn sắt; trình độ học vấn: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Phạm Ngọc D, sinh năm 1958 và bà Phan Thị T, sinh năm 1959; bị cáo có 01 anh ruột, sinh năm 1984; có vợ Trương Thị S, sinh năm 1992 và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 08/8/2018, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1975; địa chỉ: 26/16 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 08/08/2018, Phạm Minh N điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream (không rõ biển số), mượn của H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đi đến khu vực ngã ba C, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương rồi sử dụng điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng, sim số 0121.295.2320 gọi cho một người đàn ông tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá. Lát sau, T đi bộ ra gặp N và bán cho N 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau khi giao dịch, N bỏ gói ma túy vừa mua được vào túi quần phía trước bên phải, điều khiển xe mô tô về trả lại xe cho H. Sau đó, N đi về nhà rồi đi bộ ra đầu hẻm để mua nước ngọt. Đến khoảng 14 giờ 35 phút cùng ngày, khi đến trước số nhà 10/28, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình

Dương, Công an tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính, phát hiện 01 gói nylon ma túy đá trong túi quần phía trước bên phải N đang mặc nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Theo Kết luận giám định số 483/MT-PC54 ngày 13/08/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,1137 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng, sim số 0121.295.2320.

Đối với tên T bán ma túy cho N, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với xe mô tô kiểu dáng Dream (không rõ biển số) mà N mượn của H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch của H nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 317/CT - VKS ngày 02 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Minh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phạm Minh N mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng sau giám định 0,0637 gam và sim số 0121.295.2320. Đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng là phương tiện phạm tội.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người chứng kiến cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về nội dung: Khoảng 14 giờ 35 phút ngày 08/8/2018, tại số nhà 10/28, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Công an tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện túi quần phía trước bên phải của Phạm Minh N có 01 gói nylon bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine trọng lượng 0,1137gam nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: .......

c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; .......

Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 0,1137 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 317/CT - VKS ngày 02 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

 [4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

 [5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

 [6] Về nhân thân: Bị cáo là người lao động nghề nghiệp thợ hàn sắt có sử dụng ma túy và hiện nay đang nuôi con nhỏ.

 [7] Xử lý vật chứng:

- Xét ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng sau giám định 0,0637 gam là vật cấm lưu hành và sim số 0121.295.2320 là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng là phương tiện phạm tội, cần tuyên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

 [8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh N phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Phạm Minh N 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng sau giám định 0,0637 gam và 01 sim số 0121.295.2320;

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng.  (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/10/2018).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Minh N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 310/2018/HS-ST ngày 23/10/ 2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:310/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về