Bản án 309/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 309/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/9/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 281/2020/HS-ST ngày 26/8/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 310/2020/QĐXXST-HS ngày 03/9/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/2020/HS-ST/QĐ-HPT ngày 17/9/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Anh T, Sinh ngày 12/01/1990, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Thôn Phú L, xã Hòa T, huyện Đông H, tỉnh Phú Yên.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Phạm Văn A (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo có vợ Kiều Dương T, Sinh năm 1992, có 03 con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 27/10/2006 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 199/HSST. Đến ngày 21/7/2007 chấp hành xong hình phạt tù và được xóa án tích.

Ngày 19/8/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 244/HSST. Đến ngày 23/7/2009 chấp hành xong hình phạt tù và được xóa án tích.

Ngày 28/9/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, tại Bản án số 266/HSST. Đến ngày 07/6/2013 chấp hành xong hình phạt tù và được xóa án tích.

Ngày 20/3/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, tại bản án số 55/HSST. (Bị cáo bị cấp phúc thẩm kháng nghị). Ngày 27/6/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, tại Bản án số 239/HSPT. Đến ngày 31/8/2016 chấp hành xong hình phạt tù. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ tại nhà tạm giữ công an thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Thúc Đ; Nơi cư trú: Thôn 8, xã Ea T, huyện Cư K, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người chứng kiến:

1. Bà Lê Thị H; Nơi cư trú: Liên gia 8, tổ dân phố 7, phường Tân A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt.

2. Ông Võ Hữu S; Nơi cư trú: Liên gia 5, tổ dân phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Anh T là đối tượng nghiện ma túy nên vào lúc 07 giờ 30 phút, ngày 13/5/2020 T thuê xe ôm đi từ phòng trọ số 5 của mình ở địa chỉ 4/35 Nguyễn Xuân N, phường T, thành phố B, đến khu vực Cầu 14, thuộc địa bàn xã Hòa P, thành phố B để tìm mua ma túy về sử dụng. T sử dụng chiếc điện thoại hiệu Vivo 1916 gắn sim có số thuê bao: 0969.53.23.53 để liên lạc với đối tượng tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) để hẹn gặp và mua ma túy tại khu vực Cầu 14. Khi đến điểm hẹn, T đưa cho T 1.600.000 đồng còn T đưa cho T 32 gói giấy bạc có chứa Heroine. Sau đó, T mang số ma túy mua được về cất giấu trên kệ chén tại phòng trọ số 05 của T. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Công an phường T, thành phố B kiểm tra phòng trọ số 5 của T.

Tại đây, T tự nguyện giao nộp 32 gói giấy bạc đều chứa chất bột màu trắng bỏ trong một đoạn ống nhựa được quấn băng keo đen và đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 431/GĐMT-PC09 ngày 22 tháng 5 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất bột màu trắng đựng trong 32 gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 1,9551 gam, loại: Heroin.

Tại bản Cáo trạng số: 290/CT-VKS. BMT ngày 26/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Phạm Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Phạm Anh T khai nhận: Hành viphạm tội của bị cáo như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nên vào sáng ngày 13/5/2020, bị cáo đến khu vực Cầu 14, tìm mua ma túy về sử dụng và bị cáo đã mua của Tài 1.600.000 đồng tiền ma túy. Sau đó, bị cáo mang số ma túy mua được về cất giấu đến chiều cùng ngày, Công an phường T, thành phố B kiểm tra thu giữ và đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện khai báo hành vi phạm tội của mình những lời khai là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung nhục hình gì.

Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phan Thúc Đ khai nhận: Đối với phòng trọ số 5 ở địa chỉ 4/35 Nguyễn Xuân N, phường T, thành phố B thuộc quyền quản lý, sở hữu của anh Phan Thúc Đ, anh Đ cho bị cáo thuê, việc bị cất giấu ma túy thì anh Đ không biết, không liên quan gì.

Quá trình điều tra những người chứng kiến khai nhận: Vào ngày 13/5/2020 bà Lê Thị H, ông Võ Hữu S có chứng chiến việc Công an khám xét, thu giữ và đã niêm phong số ma túy của bị cáo T theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Anh T mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với chất ma túy còn lại sau giám định khối lượng 1,9272 gam, loại Heroine được niêm phong trong phong bì số 431/GĐMT-PC09 ngày 22 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại hiệu Vivo 1916 gắn sim có số thuê bao: 0969.53.23.53, là công cụ bị cáo Phạm Anh T dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước. 

Đối với 01 chiếc điện thoại Nokia 1280 gắn sim có số thuê bao: 0931.63.21.77 và sim số 0906.502.262. Quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa, đối đáp gì với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

Tại phần lời nói sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay về cơ bản là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Xét hành vi của bị cáo đem cất giữ 1,9551 gam loại Heroine nhằm mục đích sử dụng là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)……;

………;

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, không những đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rằng các loại dược chất ma túy đều thuộc sự độc quyền quản lý của Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự, thủ tục nghiêm ngặt; mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc. Người nghiện ma túy là tự tàn phá sức khỏe, làm tổn hại giống nòi và còn là nguyên nhân làm lây truyền các căn bệnh xã hội, trong đó có đại dịch HIV/AIDS đang là vấn nạn của toàn nhân loại. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên vào ngày 13/5/2020, bị cáo đã tàng trữ 1,9551 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng. Mặt khác, bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện ngày 27/10/2006 bị cáo Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 199/HSST; Ngày 19/8/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 244/HSST; Ngày 28/9/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 266/HSST; Ngày 27/6/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, tại Bản án số 239/HSPT. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội. Cho nên đối với bị cáo cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định. Có như vậy, mới phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là, tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Bộ luật hình sự nên cần xem xét trong quá trình lượng hình để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

[5] Đối với, hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Cơ quan cảnh Sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[6] Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai nhận mua của một người nam giới tên Tài tại khu vực Cầu 14, thuộc địa bàn xã Hòa P, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và người tài xế xe ôm chở bị cáo T đi mua chất ma túy. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của 02 đối tượng nên tách hành vi của 02 đối tượng ra khỏi vụ án tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[7] Đối với phòng trọ số 5 ở địa chỉ 4/35 Nguyễn Xuân N, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột. Quá trình điều tra xác định là của anh Phan Thúc Đ cho bị cáo thuê nhưng anh Đ không biết bị cáo cất giấu ma túy tại phòng trọ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý đối với anh Đ là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy: 1,9272 gam, loại Heroine được niêm phong trong phong bì số 431/GĐMT-PC09 ngày 22 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại hiệu Vivo 1916 gắn sim có số thuê bao: 0969.53.23.53, là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Trả lại cho bị cáo: 01 chiếc điện thoại Nokia 1280 gắn sim có số thuê bao: 0931.63.21.77 và sim số 0906.502.262, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án. (Đặc điểm, khối lượng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án thành phố B ngày 04/9/2020).

Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Anh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Anh T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 13/5/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 1,9272 gam, loại Heroine được niêm phong trong phong bì số 431/GĐMT-PC09 ngày 22 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước của Phạm Anh T: 01 chiếc điện thoại hiệu Vivo 1916 gắn sim có số thuê bao: 0969.53.23.53.

Trả lại cho bị cáo Phạm Anh T: 01 chiếc điện thoại Nokia 1280 gắn sim có số thuê bao: 0931.63.21.77 và sim số 0906.502.262, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án. (Đặc điểm, khối lượng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án thành phố B ngày 04/9/2020).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 309/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:309/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về