Bản án 308/2020/DS-PT ngày 29/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 308/2020/DS-PT NGÀY 29/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 339/2020/TLPT-DS ngày 03 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 20/2020/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 320/2020/QĐ-PT ngày 19 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lâm Hồng H, sinh năm 1959.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lâm Hoàng N, sinh năm 1995 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện N, tỉnh C.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Huỳnh Công D, luật sư Văn phòng Luật sư Huỳnh Công D thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Bà Phạm Ngọc A, sinh năm 1969 (có mặt). Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện N, tỉnh C.

- Người kháng cáo: Bà Phạm Ngọc A là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bà Lâm Hồng H là nguyên đơn trình bày: Năm 2017, bà có cho bà A vay số tiền 60.000.000 đồng với lãi suất 600.000 đồng/tháng, khi vay bà A có đóng lãi đến tháng 3/2019 thì ngưng cho đến nay và cũng không không trả vốn. Nay bà yêu cầu vốn vay là 60.000.000 đồng, lãi suất từ tháng 3/2019 đến tháng 3/2020 (12 tháng) là 7.200.000 đồng. Tổng hai khoản là 67.200.000 đồng.

Bà Phạm Ngọc A là bị đơn trình bày: Vào tháng 2/2020, bà đã trả số tiền 260.000.000 đồng theo Quyết định 96/2019/QĐST-DS ngày 05/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, trong đó có khoản tiền 60.000.000 đồng bà H yêu cầu.

Do bà đã trả hoàn toàn số nợ giữa bà và bà H, không còn khoản nợ nào khác nên bà không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn và từ chối tham gia tố tụng.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh Lâm Hoàng N trình bày: Số tiền vay vốn gốc 60.000.000 đồng, khoản nợ vay này của bà A không nằm trong các khoản nợ vay mà bà H đã kiện bà A tại Tòa án và được giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 96/2019/QĐST-DS ngày 05/9/2019, đây là khoản nợ vay riêng và hạn trả vào tháng 12/2019.

Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2020/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn đã QUYẾT ĐỊNH

Buộc bà Phạm Ngọc A có trách nhiệm thanh toán cho bà Lâm Hồng H số tiền vốn vay là 60.000.000 đồng, lãi suất bằng 7.200.000 đồng, tổng cộng là 67.200.000 đồng.

Ngày 06/10/2020, bị đơn bà Phạm Ngọc A có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm bà giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Ngọc A thấy rằng: Bà A thừa nhận có vay 60.000.000 đồng của bà H, khi vay các bên có lập thành văn bản là Giấy cho vay tiền (BL 01), như vậy việc vay được các bên đồng ý thực tế có xảy ra. Nhưng bà A cho rằng bà đã trả xong trong tổng số tiền 260.000.000 đồng theo Quyết định 96/2019/QĐST-DS ngày 05/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn về công nhận sự thỏa thuận của đương sự và cho rằng do có quyết định giải quyết tranh chấp nên không hủy bỏ giấy cho vay tiền 60.000.000 đồng, nay bà H lấy biên nhận cũ kiện tiếp bà không chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên và bị đơn thừa nhận khoản vay được thực hiện năm 2017, nghĩa là trước khi đôi bên xác lập biên nhận nợ ngày 01/5/2019 (BL 68). Xét thấy biên nhận 01/5/2019 có nội dung là kê ra các khoản nợ vay trước đó, trong đó có khoản kê 60.000.000 đồng và do có khoản kê 60.000.000 đồng nên tổng khoản nợ bà A đã thanh toán cho bà H theo Quyết định số 96/2019/QĐST-DS là 260.000.000 đồng, đây là khoản nợ đôi bên thống nhất thỏa thuận hòa giải thành và bà A cùng đã thi hành án xong. Đồng thời, không có chứng cứ thể hiện khi thỏa thuận đôi bên thống nhất còn khoản nợ khác là 60.000.000 đồng.

Như vậy, khoản nợ đôi bên hiện tranh chấp được xác lập trước khi biên nhận kết nợ ngày 01/5/2019 và trước khi đôi bên có tranh chấp nợ được giải quyết tại Quyết định số 96/2019/QĐST-DS ngày 05/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn.

Từ những nhận định trên cho thấy yêu cầu kháng cáo của bà A là có cơ sở và quan điểm của Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận, sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

[2] Đối với án phí dân sự sơ thẩm do sửa án nên bà Lâm Hồng H phải chịu theo qui định, tuy nhiên tại phiên tòa anh N cho rằng sau khi xử sơ thẩm anh đã nhận lại toàn bộ khoản tiền tạm ứng án phí và tại văn bản số 554/CV-CCTHADS ngày 21 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Năm Căn xác định đã hoàn trả cho bà H, do đó bà phải nộp lại án phí theo qui định.

[3] Do chấp nhận kháng cáo nên bà Phạm Ngọc A không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Ngọc A. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 20/2020/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn.

Tuyên xử:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Lâm Hồng H kiện đòi bà Phạm Ngọc A có trách nhiệm thanh toán số tiền tổng cộng vốn và lãi là 67.200.000 đồng (Sáu mươi bảy triệu hai trăm nghìn đồng).

2. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

Bà Lâm Hồng H phải chịu 3.360.000 đồng. Ngày 11/3/2020, bà H đã nộp số tiền tạm ứng án phí 1.680.000 đồng theo biên lai số 0007107 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn bà đã nhận. Nay bà phải nộp 3.360.000 đồng (chưa nộp).

Bà Phạm Ngọc A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Ngọc A không phải chịu, bà A đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0007431 ngày 26/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Năm Căn, được nhận lại.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 308/2020/DS-PT ngày 29/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:308/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về