TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 308/2019/HS-ST NGÀY 19/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 390/2019/HSST ngày 17/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3417/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn S, sinh năm 1977 tại Đồng Nai; nơi thường trú: 35F/5 Khu phố 9, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở: Nhà không số thuộc Tổ 19, Ấp 4, xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Vũ Thị S; có vợ Đào Thị Cẩm N và 04 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giam ngày 11/3/2019. (có mặt).
Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Văn Tài thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn S. (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 15 giờ 50 phút ngày 11/3/2019, tại trước nhà số 16/9C, Ấp 1A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn S có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán cho người khác.
Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải S đang mặc có 01 hộp giấy màu xanh có ghi chữ KAWACHI, bên trong chứa 02 gói nylon chứa ma túy ở thể rắn, có khối lượng 74,8387 gam, loại Heroine; 01 xe gắn máy biển số: 59T1 - 325.54; 01 điện thoại di động hiệu Vertu Trung Quốc; 01 điện thoại di động hiệu Iphone. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của S tại nhà không số thuộc Tổ 19, Ấp 4, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, thu giữ: 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng, có khối lượng 0,1175 gam, không tìm thấy ma túy. (Theo kết luận giám định số 715/KLGĐ-H ngày 15/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).
Quá trình điều tra Nguyễn Văn S khai nhận: khoảng tháng 10/2018, S quen biết với một người phụ nữ gọi là Dì Hai (không rõ lai lịch) tại quán cà phê (không nhớ tên và địa chỉ) ở khu vực xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn khi S đi xin việc làm. Do S có bằng lái xe ô tô hạng B2 nên từ tháng 10/2018 đến tháng 02/2019, “Dì Hai” đã thuê S làm lái xe chở “Dì Hai” đi giao đồ nhưng không nói cho S biết là giao đồ gì. Mỗi tháng “Dì Hai” thuê S chở đi giao đồ từ 4 đến 5 lần, mỗi lần chở đi, “Dì Hai” đều bảo S ngồi uống cà phê, sau khi xong việc thì “Dì Hai” gọi điện thoại để S đến đón về và trả tiền công cho S 500.000 đồng/1 lần đi giao đồ, thời gian, địa điểm từng lần đi giao đồ thì S không nhớ rõ. Đến khoảng giữa tháng 02/2019, “Dì Hai” thuê căn nhà không số, Tổ 19, Ấp 4, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn cho vợ chồng S ở và “Dì Hai” có cất giữ 01 chìa khóa nhà riêng để vào nhà khi cần. Sau đó, “Dì Hai” đã đem ma túy, loại Heroine đến nhà thuê của S đang ở để cất giấu 02 lần; một lần “Dì Hai” đem 03 gói Heroine cất trong tủ gỗ để sát tường bên trái gần cửa chính trong nhà rồi gọi điện báo cho S biết là cho “Dì Hai” cất nhờ ma túy và S đồng ý. Vài ngày sau, “Dì Hai” tự đến lấy số ma túy trên đi bán cho khách, lần này S không tham gia. Đến ngày 08/3/2019, “Dì Hai” tiếp tục đem 09 gói Heroine đến chỗ ở của S cất vào tủ gỗ; cất xong, “Dì Hai” gọi điện thoại báo cho S biết là “Dì Hai” đã đem 09 gói Heroine cất giấu trong túi áo mưa màu xanh để trong tủ gỗ, đến ngày 11/3/2019, “Dì Hai” gọi điện cho S nhờ S lấy ra 03 gói Heroine đem bán cho khách 02 lần, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 11/3/2019, khi S đang ở tại nhà không số, tổ 19, ấp 4, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn thì “Dì Hai” gọi điện cho S báo có một người đàn ông tên Vũ (không rõ lai lịch) sẽ điện thoại cho S để mua Heroine của “Dì Hai” và nhờ S bán giúp, S đồng ý. Một lúc sau, người đàn ông tên Vũ gọi điện cho S hỏi mua 01 gói Heroine với giá 25.000.000 đồng/1 gói và hẹn giao dịch tại quán cà phê Minh nằm trên đường Trần Văn Giàu, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh. Sau khi nghe điện thoại xong, S đến tủ gỗ lấy 01 gói Heroine từ túi áo mưa màu xanh rồi điện thoại báo cho “Dì Hai” biết. “Dì Hai” bảo S cầm 01 gói Heroine đi bán cho Vũ với giá 25.000.000 đồng. “Dì Hai” hứa trả công cho S 1.000.000 đồng, S đồng ý. Khoảng hơn 12 giờ cùng ngày S cầm 01 gói Heroine cất giấu vào túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người và điều khiển xe gắn máy biển số 59T1-325.54 chạy đến quán cà phê như đã hẹn trước thì gặp Vũ đang ngồi trong quán liền đem gói Heroine đưa cho Vũ và nhận 25.000.000 đồng từ Vũ rồi đi về chỗ ở.
- Lần thứ hai: Sau khi S bán xong cho Vũ 01 gói Heroine nói trên, S đi về gần tới chỗ ở thì nhận được điện thoại của Vũ bảo S bán thêm cho Vũ 02 gói Heroine nữa, với giá 50.000.000 đồng/2 gói và gặp nhau tại điểm hẹn lần đầu để giao dịch. S điện thoại cho “Dì Hai” thông báo là Vũ mua thêm 02 gói Heroine và S bảo với “Dì Hai” là S không đi giao nữa nhưng “Dì Hai” nói với S là giúp “Dì Hai” lần cuối và dặn S cất 25.000.0000 đồng là số tiền đã bán ma túy cho Vũ lần đầu để trong tủ gỗ rồi “Dì Hai” sẽ đến lấy, S đồng ý. S về nhà cất số tiền vào trong tủ gỗ gần chỗ cất Heroine để trong túi áo mưa màu xanh và lấy thêm 02 gói Heroine từ túi áo mưa màu xanh bỏ vào hộp giấy màu xanh cất giấu trong túi quần phía trước bên phải của S đang mặc trên người rồi điều khiển xe máy chạy đến điểm hẹn cũ để bán cho Vũ. Trên đường đi đến trước nhà số 16/9C ấp 1A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh thì S bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 gói Heroine như đã nêu trên.
Số ma túy còn lại là 06 gói Heroine để trong túi áo mưa màu xanh và số tiền đã bán Heroine cho Vũ là 25.000.000 đồng cất giấu vào trong tủ gỗ tại nhà S thì do ai lấy đi lúc nào S không biết.
Tại thời điểm khám xét nơi ở của S có mặt Đào Thị Cẩm Nhung (là vợ của S), Nhung khai nhận: Khoảng 15 giờ 25 phút ngày 11/3/2019, có 01 người phụ nữ che kín mặt (không rõ lai lịch) đến gõ cửa nhà của vợ chồng S và Nhung đang ở nói đến lấy đồ trước đây đã gửi cho S. Người phụ nữ tự đi đến tủ gỗ lấy đi một bịch đồ nhưng Nhung không biết bên trong đó chứa gì rồi đi khỏi nhà. Nhung không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy của S, lời khai của Nhung phù hợp với lời khai của S.
Đối với các đối tượng liên quan gồm: Dì Hai (là người cung cấp ma túy cho S để bán cho người khác) và Vũ (là người mua ma túy) do Nguyễn Văn S khai không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ xác minh, truy bắt để xử lý.
Tại bản Cáo trạng số 270/CT-VKS-P1 ngày 15/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai.
Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Văn S từ 15 đến 17 năm tù; buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đến 20.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Luật sư Nguyễn Văn Tài trình bày bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn S thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có 04 con còn nhỏ đang trong độ tuổi ăn học; số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra cộng đồng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị và miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Văn S thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.
Đối đáp lại quan điểm của luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng luật sư thống nhất về tội danh và điều luật truy tố, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn S không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn S không có ý kiến về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn S đã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trên.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can, vật chứng thu giữ, kết luận giám định… nên đã có đủ cơ sở xác định: vì mục đích thu lợi bất chính và được cho ở nhà thuê không phải trả tiền, từ tháng 10/2018 đến tháng 03/2019, bị cáo Nguyễn Văn S đã để người phụ nữ tên Dì Hai (không rõ lai lịch) cất giấu ma túy tại nơi bị cáo ở là nhà không số, tổ 19, ấp 4, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, bị cáo nhiều lần chở đối tượng Dì Hai đi bán ma túy và trực tiếp đi giao ma túy giúp cho đối tượng 02 lần vào ngày 11/3/2019. Cụ thể: ngày 08/3/2019, “Dì Hai” đem 09 gói Heroine đến chỗ ở của bị cáo cất vào tủ gỗ, đến ngày 11/3/2019, “Dì Hai” gọi điện cho bị cáo nhờ lấy ra 03 gói Heroine đem bán cho khách, khoảng 11 giờ cùng ngày, theo chỉ đạo qua điện thoại của Dì Hai, bị cáo lấy 01 gói Heroine từ túi áo mưa màu xanh trong tủ gỗ rồi cất giấu vào túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người, điều khiển xe gắn máy biển số 59T1-325.54 chạy đến quán cà phê Minh nằm trên đường Trần Văn Giàu, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh giao cho Vũ, nhận 25.000.000 đồng đem về cất tại tủ gỗ. Khi về gần đến nhà, bị cáo được Vũ gọi điện hỏi mua thêm 02 gói Heroine nữa, với giá 50.000.000 đồng/2 gói, bị cáo gọi cho Dì Hai và đồng ý về nhà cất số tiền vào trong tủ gỗ rồi lấy thêm 02 gói Heroine từ túi áo mưa màu xanh bỏ vào hộp giấy màu xanh cất giấu trong túi quần phía trước bên phải, điều khiển xe máy chạy đến điểm hẹn cũ để bán cho Vũ. Trên đường đi đến trước nhà số 16/9C ấp 1A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh thì bị kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 gói ma túy ở thể rắn, có khối lượng 74,8387 gam, loại Heroine. (Theo kết luận giám định số 715/KLGĐ-H ngày 15/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).
Trong lúc bị cáo đi giao ma túy và bị bắt giữ thì 06 gói Heroine và số tiền 25.000.000 đồng bán ma túy cho Vũ trong tủ gỗ tại nơi ở của bị cáo đã bị Dì Hai đến lấy lúc nào bị cáo không biết.
Do số ma túy bị cáo đã bán cho đối tượng tên Vũ và số ma túy cất giữ tại nơi ở của bị cáo đã bị một người phụ nữ không xác định được lai lịch đến lấy đi mất và chỉ có lời khai của bị cáo, không thu giữ được ma túy, không có chứng cứ nào khác để chứng minh nên chưa có cơ sở để buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy này. Vậy nên, Nguyễn Văn S chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự với số ma túy bị bắt quả tang là 74,8387 gam, loại Heroine.
Với các hành vi như trên, xét đã có cơ sở để tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt của điều luật truy tố quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.
[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như vị đại diện Viện kiểm sát và vị luật sư bào chữa đã đề cập như: bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có 04 con còn nhỏ đang trong độ tuổi ăn học; số ma túy bị cáo đang đem bán cho Vũ đã bị thu giữ, chưa phát tán ra ngoài cộng đồng để áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
Đối với khoản tiền thu lợi bất chính, do xác định bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong lần phạm tội và bị bắt quả tang ngày 11/3/2019, ngoài lời khai của bị cáo thì chưa có căn cứ nào khác để xác định bị cáo có thu lợi bất chính nên không buộc bị cáo phải nộp lại.
Đối với Đào Thị Cẩm Nhung (là vợ của bị cáo S) khai nhận: Khoảng 15 giờ 25 phút ngày 11/3/2019, có 01 người phụ nữ che kín mặt (không rõ lai lịch) đến gõ cửa nhà nói đến lấy đồ trước đây đã gửi cho S. Người phụ nữ tự đi đến tủ gỗ lấy đi một bịch đồ nhưng Nhung không biết bên trong đó chứa gì rồi đi khỏi nhà, Nhung không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy của S, lời khai của Nhung phù hợp với lời khai của S nên chưa có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nhung.
Đối với các đối tượng liên quan gồm: Dì Hai (là người cung cấp ma túy cho S để bán cho người khác) và Vũ (là người mua ma túy), do bị cáo khai không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ xác minh, truy bắt để xử lý.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và gói bột không phải là ma túy, hộp giấy màu xanh, ghi chữ KAWACHI, bên trong không chứa gì không còn giá trị sử dụng nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.
- Đối với điện thoại di động hiệu Vertu và Iphone, bị cáo dùng để liên lạc giao nhận mua bán ma túy là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2015 tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
- Đối với xe gắn máy hiệu hiệu Honda AIR BLADE; số khung: RLHJF-18097Y566344; số máy: JF18E-5066428 nguyên thủy, không bị đục (gắn biển số giả: 59T1-325.54 là biển chiếc xe gắn máy hiệu Honda WAVE S). Kết quả xác minh xe gắn máy có số khung, số máy của xe trên xác định xe có biển số thật là 52F8-9369 do Nguyễn Hoàng Anh trú tại 48/29 Lê Ngã, phường Phú Trung, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh là chủ sở hữu, hiện Hoàng Anh đã bán nhà đi đâu không rõ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không ghi được lời khai để làm rõ về chiếc xe này. Bị cáo Nguyễn Văn S khai mua xe gắn máy hiệu Honda AIR BLADE biển số 59T1-235.54 (biển giả) của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) bằng giấy tay để sử dụng nhưng đã bị thất lạc (S không nhớ rõ thời gian và địa điểm mua xe). Ngày 19/4/2019, Cơ quan điều tra đã gửi Công văn số 775/CV-PC04(Đ5) đề nghị đăng thông báo tìm anh Nguyễn Hoàng Anh và những người có liên quan đến chiếc xe gắn máy nêu trên để giải quyết theo quy định của pháp luật nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ để giải quyết. Do chủ sở hữu của xe gắn máy hiện không có ở địa phương, không rõ ở đâu nên chưa xác định được ai là người sở hữu, người quản lý hợp pháp của chiếc xe gắn máy trên nên cần áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự yêu cầu cơ quan thi hành án tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp sau 06 tháng nếu xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì trả lại cho người đó, nếu không xác định được thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Riêng biển số 59T1-235.54 được xác định là giả nên tách ra tịch thu, tiêu hủy.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Văn S 16 (mười sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 11/3/2019.
Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 715/19 Bình Chánh (G1) có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải (PC09) và Cán bộ điều tra Nguyễn Thanh Sang (PC04), bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 715/19 Bình Chánh (G2) có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải (PC09) và Cán bộ điều tra Nguyễn Thanh Sang (PC04), bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 hộp giấy màu xanh, ghi chữ KAWACHI, bên trong không chứa gì.
- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vertu Trung Quốc có Imei: 353800812568141 cùng 02 sim cắt (sim 1 trên sim có số 29510T, sim 2 trên sim không có số) và 01 điện thoại di động hiệu Iphone, có Imei: 354386068436505, cùng 01 sim bị cắt.
- Thông tin tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp trên báo chí, sau 06 tháng kể từ ngày đăng báo nếu chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp không đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với: 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, số loại: AirBlade, số khung RLHJF-18097Y566344, số máy: JF18E-5066428. Riêng biển số 59T1-325.54 được xác định là giả nên tách ra tịch thu tiêu hủy.
(Các vật chứng trên theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 383/19 ngày 23/7/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án 308/2019/HS-ST ngày 19/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 308/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về