Bản án 307/2020/HS-PT ngày 30/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 307/2020/HS-PT NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 319/2020/TLPT-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo Hồ Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo Hồ Thị H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2020/HS-ST ngày 27-7-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Hồ Thị H, sinh năm 1971 tại Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Buôn bán; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Ngọc Bích và con bà Trần Thị T1; có chồng tên Trương Văn Q; có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1994 và con nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt giam ngày 26/12/2019, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Thị H, theo yêu cầu của Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng: Luật sư Đoàn Quang H1- Văn phòng luật sư THT, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Bị hại: Bà Đỗ Thị L, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn Q1, xã E1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trương Văn Q, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Thị H là vợ ông Trương Văn Q-Chủ Doanh nghiệp tư nhân Thương mại QH (sau này được viết tắt là Doanh nghiệp QH), có trụ sở tại thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; kinh doanh mua bán cà phê và chế biến cà phê. H được ông Quang giao quản lý tài chính của Doanh nghiệp QH. H cùng chồng kinh doanh bằng cách nhận cà phê gửi giữ của các hộ dân và các đại lý trên địa bàn huyện K để bảo quản. Khi nào các hộ dân, đại lý cần bán cà phê thì đến Doanh nghiệp QH chốt giá bán cà phê gửi giữ cho Doanh nghiệp QH. Doanh nghiệp QH đã dùng cà phê của các hộ dân, đại lý gửi giữ, cầm cố cho các Công ty, Doanh nghiệp khác để ứng khoản tiền tương ứng 70% giá trị số lượng cà phê đã cầm cố. Tại thời điểm cầm cố và dùng khoản tiền này để kinh doanh mua bán cà phê. Nếu giá cà phê trên thị trường giảm xuống đến mức số lượng cà phê cầm cố có giá trị bằng hoặc thấp hơn khoản tiền Doanh nghiệp QH tạm ứng mà Doanh nghiệp QH không thanh toán khoản tiền đã tạm ứng, thì Công ty, Doanh nghiệp nhận cầm cố cà phê có quyền bán cà phê của Doanh nghiệp QH đã cầm cố để khấu trừ khoản tiền Doanh nghiệp QH đã tạm ứng.

Năm 2016, giá cà phê trên thị trường liên tục giảm dẫn đến Doanh nghiệp QH kinh doanh bị thua lỗ không còn khả năng thanh toán nợ cho các hộ dân và đại lý ký gửi cà phê tại Doanh nghiệp QH. Để có tiền trả nợ và duy trì việc kinh doanh, mặc dù không còn cà phê dự trữ trong kho, không còn cà phê ký gửi tại các Công ty. Hồ Thị H đến gặp bà Đỗ Thị L, nói dối rằng hiện tại Doanh nghiệp QH đang còn số lượng cà phê rất lớn đăng ký gửi tại các Công ty. Nhưng do giá cà phê đang xuống thấp nên không thể bán hết một lần, H muốn bán cà phê cho bà L từng lần với số lượng cụ thể để lấy tiền kinh doanh. Bà L tin tưởng H nói thật nên đã đồng ý mua cà phê của H, để chờ giá cà phê tăng lên để bán. Trong thời gian từ ngày 30/8/2016 đến ngày 07/11/2016, H bán cà phê cho bà L 08 lần với tổng số lượng 230 tấn cà phê nhân. Bà L đã thanh toán cho H giá trị số lượng cà phê nêu trên là 8.125.000.000đ. H hẹn đến ngày 30/12/2016 sẽ giao số lượng cà phê nêu trên cho bà L, Cụ thể như sau:

- Tháng 8/2016, H bán cà phê cho bà L nhiều lần, với tổng số lượng 75 tấn với giá 35.000đ/kg; bà L đã thanh toán tiền mua cà phê cho H 2.625.000.000đ. Theo yêu cầu của bà L, ngày 30/8/2016 ông Quang đến gặp bà L và viết giấy Doanh nghiệp QH bán cho bà L 75 tấn cà phê, hẹn ngày 30/12/2016 sẽ giao 75 tấn cà phê.

- Ngày 07/9/2016, H bán cho bà L 20 tấn cà phê với giá 35.000đ/kg; bà L đã thanh toán cho H tiền mua cà phê là 700.000.000đ.

- Ngày 08/9/2016, H bán cho bà L 20 tấn cà phê với giá 35.000đ/kg; bà L đã thanh toán cho H tiền mua cà phê là 700.000.000đ.

- Ngày 09/9/2016, H bán cho bà L 30 tấn cà phê với giá 35.000đ/kg; bà L đã thanh toán cho H tiền mua cà phê là 1.050.000.000đ.

- Ngày 15/9/2016, H bán cho bà L 20 tấn cà phê với giá 35.000đ/kg; bà L đã thanh toán cho H tiền mua cà phê là 700.000.000đ.

- Ngày 22/9/2016, H bán cho bà L 30 tấn cà phê với giá 35.000đ/kg; bà L đã thanh toán cho H tiền mua cà phê là 1.050.000.000đ.

- Ngày 03/10/2016, H bán cho bà L 20 tấn cà phê với giá 35.000đ/kg; bà L đã thanh toán cho H tiền mua cà phê là 700.000.000đ.

- Ngày 07/11/2016, H bán cho bà L 15 tấn cà phê với giá 40.000đ/kg; bà L đã thanh toán cho H tiền mua cà phê là 600.000.000đ.

Tổng số tiền 8.125.000.000đ nhận từ bà L, H dùng để trả nợ và sử dụng vào mục đích cá nhân. Đến hẹn ngày 30/12/2016, H không có cà phê để giao cho bà L như thỏa thuận. Bà L đòi lại tiền, H trả lại tiền cho bà L nhiều lần với tổng số tiền 2.418.400.000đ. Số tiền còn lại 5.706.600.000đ H không trả cho bà L. Bà L đã làm đơn tố cáo hành vi phạm tội của H.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2020/HSST ngày 27-7-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định.

Tuyên bố bị cáo Hồ Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Xử phạt: Hồ Thị H 18 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 26/12/2019.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 10/8/2020, bị cáo Hồ Thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Hồ Thị H trình bày giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Bị cáo lừa đảo chiếm đoạt nhiều lần của bị hại với số tiền rất lớn là 8.125.000.000đ, mới khắc phục được một phần là 2.418.400.000đ. Mặc dù bị cáo thành khẩn khai báo, có hoàn cảnh khó khăn. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bồi thường khắc phục thêm khoản nào cho bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 18 năm tù là có căn cứ. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất về tội danh, khung hình phạt xét xử bị cáo. Mong Hội đồng xét xử xem xét tình hình kinh tế toàn cầu bị suy thoái có ảnh hưởng đến Việt Nam, nên vấn đề kinh doanh cà phê của bị cáo cũng ảnh hưởng. Hiện nay, hoàn cảnh bị cáo rất khó khăn, chồng phải đi làm thuê để sinh sống nuôi con, do vậy không có tiền để khắc phục bồi thường cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo trình bày bổ sung: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có nhiều lần làm đơn kháng cáo, rồi lại rút kháng cáo. Tuy nhiên, đến ngày 10/8/2020 bị cáo viết đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hiện nay, gia đình bị cáo không còn kinh tế để khắc phục cho bị hại. Chồng bị cáo phải đi làm thuê để nuôi con nhỏ. Bị cáo nhận thấy Tòa án xét xử là đúng tội, mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm trở về nuôi con và khắc phục cho bị hại.

Ông Trương Văn Q trình bày: Bản thân tôi là Chủ Doanh nghiệp nhung hoàn toàn không biết việc vợ tôi là Hồ Thị H buôn bán cà phê và tiền bạc với bà Đỗ Thị L. Hiện nay, hoàn cảnh của tôi rất khó khăn. Bản thân phải đi làm thuê để lấy tiền nuôi con. Mong Hội đồng xét xử khoan hồng cho vợ tôi Hồ Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Vào ngày 04/8/2020, bị cáo Hồ Thị H kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại nhằm minh oan cho bị cáo. Ngày 06/8/2020, bị cáo viết đơn kháng cáo với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội; bị cáo không có nguyện vọng viết đơn kháng cáo. Ngày 10/8/2020, bị cáo Hồ Thị H rút nội dung không kháng cáo được viết ngày 06/8/2020. Ngày 10/8/2020, bị cáo viết đơn kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2020/HS-ST ngày 27-7-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Như vậy, kháng cáo của bị cáo Hồ Thị H là trong thời hạn luật định. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1] Về hành vi phạm tội:

Ngày 26/8/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk lập biên bản làm việc với bị cáo Hồ Thị H với nội dung hỏi-đáp, thể hiện: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/8/2020 bị cáo Hồ Thị H có kháng cáo thừa nhận Bản án sơ thẩm xét xử đứng người, đúng tội. Tuy nhiên, bị cáo suy nghĩ lại và xin rút kháng cáo vào ngày 06/8/2020. Ngày 10/8/2020, bị cáo tiếp tục có đơn kháng cáo với nội dung xin Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt. Như vậy, đơn kháng cáo ngày 10/8/2020 của bị cáo có nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, bị cáo Hồ Thị H thành khẩn khai báo và nhận tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk thu thập có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Năm 2016, Doanh nghiệp tư nhân Thương mại QH kinh doanh cà phê bị thua lỗ, không có khả năng thanh toán nợ cho các hộ dân và đại lý ký gửi cà phê tại Công ty, Doanh nghiệp. Hồ Thị H là vợ của Trương Văn Q, do ông Quang là Chủ Doanh nghiệp. H đã liên hệ gặp bà Đỗ Thị L và dùng thủ đoạn gian dối để tạo niềm tin rằng Doanh nghiệp của H đang có số lượng cà phê rất lớn đang ký gửi tại các Công ty và H muốn bán cà phê cho bà Đỗ Thị L bằng hình thức nhiều lần để lấy tiền kinh doanh làm cho bà Đỗ Thị L tin là sự thật. Từ đó, bà Đỗ Thị L tin tưởng đồng ý mua cà phê của Hồ Thị H và từ ngày 30/8/2016 đến ngày 07/11/2016 Hồ Thị H đã bán cho bà Đỗ Thị L 08 lần với tổng số lượng 230 tấn cà phê nhân. Bà Đỗ Thị L đã thanh toán cho Hồ Thị H 8.125.000.000đ tương đương 230 tấn cà phê nhân. Hồ Thị H hẹn đến ngày 30/12/2016 sẽ giao số lượng 230 tấn cà phê nhân cho bà Đỗ Thị L. Thực tế, Hồ Thị H không có cà phê, nên ngày 30/12/2016 Hồ Thị H không có cà phê để giao cho bà Đỗ Thị L như thỏa thuận. Hồ Thị H đã dùng số tiền 8.125.000.000đ để trả nợ và sử dụng vào mục đích cá nhân. Do không nhận được cà phê, bà Đỗ Thị L yêu cầu Hồ Thị H trả lại tiền đã nhận thì H trả cho bà L được 2.418.400đ. Số tiền còn lại 5.706.600đ H không có khả năng trả cho bà L. Hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Thị H đối với bà Đỗ Thị L thì ông Trương Văn Q không biết. Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hồ Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[2.2] Về mức hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Thị H là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại và gây hoang mang trong quần chứng nhân dân tại địa phương. Bị cáo Hồ Thị H bị xét xử theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Bị cáo 08 lần thực hiện hành vi phạm tội, do vậy bị áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá về tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng cho bị cáo đúng theo quy định của pháp luật. Từ đó, xử phạt bị cáo Hồ Thị H 18 (mười tám) năm tù là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Hồ Thị H không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Thị H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hồ Thị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Thị H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

2. Tuyên bố bị cáo Hồ Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Thị H 18 (mười tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 26/12/2019.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hồ Thị H phải chịu 200.000đ.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 307/2020/HS-PT ngày 30/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:307/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về