Bản án 306/2019/HS-PT ngày 16/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 306/2019/HS-PT NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 235/HSPT ngày 06/6/2019 đối với bị cáo Trần Công T do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của bị hại ông Thái Văn B, ông Phạm Văn Út Gi đối với bản án hình sự sơ thẩm số 108/2019/HS-ST ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo: Trần Công T; Sinh năm 1992 tại Bạc Liêu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Cây Giang A, xã L, huyện Đông H, tỉnh Bạc Liêu; Chỗ ở: Số 2, đường số 7, khu phố 3, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; họ tên cha: Trần Văn Ch (Chết); họ tên mẹ: Phạm Thị A; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/11/2018. (Có mặt)

Bị hại có kháng cáo:

1. Ông Thái Văn B, sinh năm 1993; Trú tại: Ấp 4, xã L, huyện Đông H, tỉnh Bạc Liêu. (Có mặt)

2. Ông Phạm Văn Út Gi, sinh năm 1985; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp X, xã H, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; Trú tại: Số 989/2 Tỉnh lộ 43, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 01/11/2018, Trần Công T sau khi sử dụng rượu bia, nhớ lại chuyện 15 ngày trước bị anh Phạm Văn Út Gi cho nghỉ việc thu gom rác mà không có lý do nên T tức giận lấy 01 con dao Thái Lan, 01 con dao tự chế lưỡi dao bằng kim loại màu đen cán gỗ màu vàng dài 40cm trong phòng trọ dấu vào trong túi quần. Sau đó, T đi tìm anh Gi đánh cho bõ tức. Khi đén phòng trọ địa chỉ số 558/6 đường Tô Ngọc Vân, khu phố 5, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, T thấy anh Gi và anh Thái Văn B đang ngủ trong phòng, T xông vào dùng dao tự chế chém anh Gi nhưng do anh Gi nằm bên trong, anh B nằm bên ngoài nên trúng vào mặt trước cẳng chân phải, anh Gi đứng dậy thì bị T chém thêm 02 nhát trúng vào vùng trán đuôi mắt gây thương tích. Anh Gi ném đồ từ trong phòng vệ sinh để chống trả lại, T ném con dao tự chế cán gỗ vào trong nhà vệ sinh và bỏ đi ra ngoài đầu hẻm, ném bỏ con dao Thái Lan dấu trong túi quần xuống dưới suối.

Công an phường Tam Phú sau khi nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, đến hiện trường vụ án và đưa T về trụ sở cơ quan lập hồ sơ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Công T đã khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 918/TgT.18 ngày 07/11/2018 của Trung tâm pháp y – Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích đối với anh Thái Văn B như sau: Một vết thương dưới gối phải gây đứt da, đứt bán phần gân bánh chè đã được phẫu thuật khâu nối gân, hiện còn vết thương còn chỉ kích thước 8x0,05cm và ống dẫn lưu tại trước gối phải chưa vận động được do vết thương còn mới, có tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại tổng cộng 15% (mười lăm phần trăm). Thương tích do vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 919/TgT.18 ngày 07/11/2018 của Trung tâm Pháp y – Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích đối với Phạm Văn Út Gi như sau: Một vết thương còn chỉ tại trán trái xuống mi trên mắt trái và ra khóe ngoài mắt trái kích thước 10x(0,1-0,15)cm, tỉ lệ 11%; một vết thương còn chỉ tại mặt trước cẳng chân phải kích thước 4x0,05cm, tỉ lệ 02%. Có tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại tổng cộng 13% (mười ba phần trăm). Thương tích do vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

Về vật chứng vụ án: 01 con dao tự chế lưỡi dao bằng kim loại màu đen cán gỗ màu vàng dài 40cm; 01 con dao Thái Lan T vứt xuống đường suối chưa tìm thấy.

Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại anh Phạm Văn Út Gi đề nghị bị cáo bồi thường tổng số tiền 20.000.000 đồng, trong đó: Chi phí khám và điều trị có hóa đơn là 15.700.000 đồng; chi phí còn lại không có hóa đơn là tiền tái khám, đi lại, ăn uống, phải nghỉ làm để điều trị thương tích là 4.300.000 đồng.

- Người bị hại anh Thái Văn B đề nghị bị cáo bồi thường tổng số tiền 9.000.000 đồng, trong đó: Chi phí điều trị có hóa đơn là 8.359.903 đồng và chi phí đi lại, tái khám, ăn uống là 64.097 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 108/2019/HSST ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Công T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm d khoản 3 Điều 134; các điểm s Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Công T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2018.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên giải quyết phần dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17/5/2019 bị cáo Trần Công T làm đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 08/5/2019 Phạm Văn Út Gi có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Công T. Ngày 14/5/2019 bị hại Thái Văn B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Công T.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Công T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu chỉ đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại ông Phạm Văn Út Gi và ông Thái Văn B trình bày sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ, đồng thời xin xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận định án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo Trần Công T, bị hại Thái Văn B, Phạm Văn Út Gi tại phiên tòa xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự về tình tiết phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự. Ngoài ra, tại phiên tòa hôm nay gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ cho người bị hại là anh Gi và anh B nên cần áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Từ những lập luận trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm mức hình phạt cho bị cáo từ 05 năm 06 tháng tù xuống 05 năm tù.

Bị cáo, bị hại không tranh luận giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại được làm trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội bản án sơ thẩm đã xử, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 01/11/2018, Trần Công T đã có hành vi dùng dao tự chế chém anh Thái Văn B, anh Phạm Văn Út Gi và theo bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 918/TgT.18 ngày 07/11/2018 của Trung tâm pháp y – Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích đối với anh Thái Văn B có tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại tổng cộng 15%, và tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 919/TgT.18 ngày 07/11/2018 của Trung tâm Pháp y – Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích đối với Phạm Văn Út Gi có tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại tổng cộng 13%.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử bị cáo Trần Công T về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, không oan sai và phù hợp với quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, và kháng cáo của bị hại Gi, B xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy chỉ vì xuất phát từ việc tức giận khi bị cho nghỉ việc mà bị cáo đã dùng dao tự chế chém bị hại là anh B, anh Gi gây thương tích. Trong vụ án này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp sử dụng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự và người bị hại tỷ lệ thương tật anh B 15%, anh Gi tỷ lệ thương tật 13% thuộc trường hợp phạm tội được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự như cấp sơ thẩm đã nhận định và xét xử là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền cho người bị hại anh Phạm Văn Út Gi, anh Thái Văn B, người bị hại đã nhận được số tiền bồi thường và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa xem xét tình tiết phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự để áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công T, bị hại Phạm Văn Út Gi, Thái Văn B và sửa bản án sơ thẩm.

[4] Bị cáo, bị hại Phạm Văn Út Gi, Thái Văn B không phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 134; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công T, bị hại Phạm Văn Út Gi, Thái Văn B; sửa bản án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Trần Công T 05 (năm) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2018.

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc:

Bị cáo Trần Công T không phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bị hại Phạm Văn Út Gi, Thái Văn B không phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 306/2019/HS-PT ngày 16/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:306/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về