Bản án 304/2020/DS-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 304/2020/DS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 22 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 697/2019/TLST-DS ngày 25 tháng 12 năm 2019, về: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 228/2020/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 202/2020/QĐST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP SGTT; Địa chỉ trụ sở: Lầu 8, số 266-268 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 08, Quận 03, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Đức T, sinh năm: 1984; Địa chỉ: Lầu 8, số 266-268 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 08, Quận 03, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Phạm Hồng L, sinh năm: 1980; Địa chỉ: Số 332/179/16B đường Dương Quảng Hàm, Phường 05, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng TMCP SGTT, có ông Trần Đức T trình bày:

Vào ngày 08/6/2007, ông Phạm Hồng L có ký với Ngân hàng TMCP SGTT (sau đây được viết tắt là Ngân hàng) Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng; Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ thu nhập của ông L, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông L đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 42.020.000 (Bốn mươi hai triệu không trăm hai mươi ngàn) đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt đến nay ông L đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 50.477.000 (Năm mươi triệu bốn trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng. Kể từ ngày 31/12/2010, ông L không thanh toán cho Ngân hàng nữa. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông L vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 01/4/2011 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn.

Nay Ngân hàng TMCP SGTT khởi kiện yêu cầu ông L phải thanh toán số tiền tính đến ngày 20/8/2019 là: 14.518.773 (Mười bốn triệu năm trăm mười tám ngàn bảy trăm bảy mươi ba) đồng. Trong đó, nợ gốc là 3.607.869 (Ba triệu sáu trăm lẻ bảy ngàn tám trăm sáu mươi chín) đồng và lãi quá hạn là: 10.910.904 (Mười triệu chín trăm mười ngàn chín trăm lẻ bốn) đồng. Ngân hàng TMCP SGTT yêu cầu ông L phải thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 21/8/2019 cho đến khi trả hết nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.

Phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn - ông Trần Đức T là người đại diện theo ủy quyền có đơn xin vắng mặt không tham gia phiên tòa được và nộp bản tự khai xác định Ngân hàng TMCP SGTT yêu cầu ông Phạm Hồng L phải thanh toán tổng số tiền tạm tính đến ngày 22/9/2020 là: 15.939.612 (Mười lăm triệu chín trăm ba mươi chín ngàn sáu trăm mười hai) đồng, trong đó nợ gốc là: 3.607.869 (Ba triệu sáu trăm lẻ bảy ngàn tám trăm sáu mươi chín) đồng và lãi quá hạn là:

12.331.743 (Mười hai triệu ba trăm ba mươi mốt ngàn bảy trăm bốn mươi ba) đồng, Ngân hàng yêu cầu ông L trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, yêu cầu ông Phạm Hồng L phải có trách nhiệm tiếp tục trả tiền lãi phát sinh cho đến ngày cầu ông L thanh toán dứt nợ cho Ngân hàng theo mức lãi suất quá hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng.

Bị đơn ông Phạm Hồng L mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập để tham gia phiên tòa nhưng ông Phạm Hồng L vẫn vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng; thực hiện việc gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn đã thực hiện đúng các qui định tại Điều 70, Điều 71; bị đơn chưa thực hiện đúng qui định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình và do Tòa án thu thập được: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng TMCP SGTT, án phí sơ thẩm thực hiện theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Ngân hàng TMCP SGTT khởi kiện ông Phạm Hồng L, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số 332/179/16B đường Dương Quảng Hàm, Phường 05, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh về việc yêu cầu ông L phải trả tiền nợ gốc và nợ lãi phát sinh còn thiếu cho Ngân hàng TMCP SGTT. Đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ tại quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về người tham gia tố tụng: Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Ngân hàng TMCP SGTT - ông Trần Đức T là người đại diện theo ủy quyền có đơn xin vắng mặt tại phiên toà. Bị đơn ông Phạm Hồng L đã được Toà án triệu tập hợp lệ từ khi thụ lý đến khi xét xử nhưng ông L vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Do ông Phạm Hồng L không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án nên Hội đồng xét xử không ghi nhận được ý kiến của ông L, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng cung cấp để làm cơ sở giải quyết vụ án.

Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/6/2007 đã đủ cơ sở xác định ông Phạm Hồng L được Ngân hàng TMCP SGTT cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là: 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

Căn cứ vào bảng tóm tắt sao kê quá trình thanh toán ngày 22/9/2020 do Ngân hàng cung cấp thể hiện: Từ ngày kích hoạt đến nay, ông L đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là: 42.020.000 (Bốn mươi hai triệu không trăm hai mươi ngàn) đồng, ông L đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền bao gồm gốc, lãi, phí và phí trễ hạn là 50.477.000 (Năm mươi triệu bốn trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng. Từ ngày 31/12/2010, ông L không thanh toán một khoản tiền nào cho Ngân hàng nữa nên đã phát sinh phí trễ hạn, lãi. Đến ngày 01/4/2011, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Số tiền lãi quá hạn được tính trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán là: 3.607.869 (Ba triệu sáu trăm lẻ bảy ngàn tám trăm sáu mươi chín) đồng với lãi suất quá hạn là 2.962%/tháng, lãi suất quá hạn 01 ngày là: 3.607.869 đồng x (1.975% x 150%): 30 ngày = 3.561 đồng, lãi quá hạn tạm tính đến ngày 22/9/2020 là: 12.331.743 (Mười hai triệu ba trăm ba mươi mốt ngàn bảy trăm bốn mươi ba) đồng.

Xét thấy, việc ông Phạm Hồng L không thanh toán tiền cho Ngân hàng là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận giữa các bên và làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Phạm Hồng L phải trả số tiền trên là có căn cứ. Mặt khác, xét về trách nhiệm trả nợ, Hội đồng xét xử xét thấy đây là khoản vay dưới hình thức thẻ tín dụng cá nhân và nguyên đơn chỉ yêu cầu ông Thanh có trách nhiệm trả nợ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Phạm Hồng L phải có trách nhiệm trả số tiền tính đến ngày 22/9/2020 là: 15.939.612 (Mười lăm triệu chín trăm ba mươi chín ngàn sáu trăm mười hai) đồng, trong đó nợ gốc là: 3.607.869 (Ba triệu sáu trăm lẻ bảy ngàn tám trăm sáu mươi chín) đồng và lãi quá hạn là: 12.331.743 (Mười hai triệu ba trăm ba mươi mốt ngàn bảy trăm bốn mươi ba) đồng. Ngân hàng yêu cầu ông Phạm Hồng L trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Và ông Phạm Hồng L còn phải tiếp tục chịu lãi suất theo mức lãi suất nợ quá hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến ngày ông L thanh toán hết số nợ vay. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP SGTT.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của Ngân hàng TMCP SGTT được chấp nhận nên ông Phạm Hồng L phải chịu tiền án phí là 796.980 (Bảy trăm chín mươi sáu ngàn chín trăm tám mươi) đồng.

Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP SGTT số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 362.970 (Ba trăm sáu mươi hai ngàn chín trăm bảy mươi) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0025327 ngày 20/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 150, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự:

- Căn cứ vào Điều 357, Điều 466 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự:

- Căn cứ vào Điều 91, Điều 95 và Điều 98 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010:

- Căn cứ vào Luật phí và lệ phí:

- Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm:

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP SGTT:

Ông Phạm Hồng L có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCP SGTT số tiền tính đến ngày 22/9/2020 là: 15.939.612 (Mười lăm triệu chín trăm ba mươi chín ngàn sáu trăm mười hai) đồng, trong đó nợ gốc là: 3.607.869 (Ba triệu sáu trăm lẻ bảy ngàn tám trăm sáu mươi chín) đồng và lãi quá hạn là: 12.331.743 (Mười hai triệu ba trăm ba mươi mốt ngàn bảy trăm bốn mươi ba) đồng đồng. Trả một lần ngay khi sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày 23/9/2020 cho đến ngày thanh toán hết nợ cho Ngân hàng TMCP SGTT, ông Phạm Hồng L còn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh trên số dư nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn đã thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 16/01/2015 cho đến ngày thi hành án xong.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Phạm Hồng L phải chịu tiền án phí là 796.980 (Bảy trăm chín mươi sáu ngàn chín trăm tám mươi) đồng.

- Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP SGTT số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 362.970 (Ba trăm sáu mươi hai ngàn chín trăm bảy mươi) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0025327 ngày 20/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.

4. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 304/2020/DS-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:304/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về