Bản án 304/2020/DS-PT ngày 30/09/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 304/2020/DS-PT NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 285/2020/TLPT-DS ngày 26 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất và Hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 367/2020/QĐ-PT ngày 27 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: 1.1. Bà Đặng Thị M, sinh năm 1963;

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

Đại diện theo ủy quyền của bà M: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1987; Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện H, Đồng Tháp (Có mặt);

1.2. Bà Đặng Thị T, sinh năm 1972;

Địa chỉ: Ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh A.

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Đặng Thị T là ông Đặng Văn K; Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phan Văn Bé - Văn phòng Luật sư Hồng Đức, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ: Số 36, QL 30, phường Mỹ Phú, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Ông Đặng Văn Đ, sinh năm 1974; (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Đặng Thị D, sinh năm 1952; (Vắng mặt, có đơn xin váng mặt).

3.2. Ông Đặng Văn K, sinh năm 1955; (Có mặt);

3.3. Bà Đặng Thị H, sinh năm 1970; (Vắng mặt);

3.4. Bà Hồ Thị H1, sinh năm 1966; (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt);

3.5. Bà Đoàn Thị T, sinh năm 1984; (Vắng mặt);

3.6. Anh Đặng Bảo L, sinh năm 2002; (Vắng mặt);

3.7. Chị Trần Thị Yến N, sinh năm 2002; (Vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của Đặng Bảo L, Trần Thị Yến N là ông Đặng Văn Đ (Cha) và cũng là người đại diện theo ủy quyền của Bà Đoàn Thị T, Bà Đặng Thị H.

3.8. Bà Đặng Thị E, sinh năm 1976; (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt); Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

3.9. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

Địa chỉ: số 18, Trần Hữu Dực, Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật là ông Trịnh Ngọc Khánh, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Văn Phụng, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ: số 37, Nguyễn Tất Thành, khóm 4, phường An Thạnh, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Văn Phụng là ông Nguyễn Tiến Trọng, chức vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh thị xã Hồng Ngự. (theo văn bản ủy quyền ngày 25/9/2019) (Có mặt).

4. Người kháng cáo: Bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T, là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T (đại diện là ông Đặng Văn K) trình bày: Cụ Đặng Văn H (chết năm 2016), và cụ Hồ Thị L (chết năm 2012), có 08 người con gồm: Đặng Thị D, Đặng Thị M, Đặng Văn K, Đặng Văn Ng (không vợ, đã chết), Đặng Thị H, Đặng Thị T, Đặng Văn Đ, Đặng Thị E. Khi còn sống, cụ H, cụ L có tạo lập được một số tài sản là quyền sử dụng đất (do cụ H đứng tên quyền sử dụng đất, cấp năm 2002, cấp lại năm 2013), gồm:

- Diện tích đất 22.012m2 thuộc ở thửa 166, 303, 389 tờ bản đồ số 2 và các thửa 159, 163, 179, 201 tờ bản đồ số 05.

- Diện tích đất 3.43 1m2 thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), tờ bản đồ số 05 (có phần tranh chấp).

Các phần đất này đều tọa lạc tại xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

- Đất ruộng tọa lạc tại xã T, huyện H diện tích là 13.791,1m2 gồm các thửa 609, 594, 603 tờ bản đồ số 6 (có phần tranh chấp), phần đất này trước năm 2001 hộ ông Nguyễn Văn Th (chồng bà M) đứng tên và canh tác, đến năm 2001 sang tên lại cho ông Đặng Văn Đ đứng tên và canh tác đến nay.

Vào năm 2010, cụ H, cụ L họp mặt để phân chia phần đất ruộng tọa lạc tại xã T, huyện H gồm các thửa 609, 594, 603 tờ bản đồ số 6, cho các con: Đặng Thị H, Đặng Thị M, Đặng Thị T, Đặng Thị E mỗi người 3.000m2, nhưng các nguyên đơn chưa nhận đất mà để cho ông Đặng Văn Đ (em trai út) canh tác vài năm để nuôi cụ H (việc cho mượn đất chỉ thỏa thuận miệng). Đến ngày 17/3/2014, cụ H mới lập tờ biên bản thuận phân chia đất cho các con. Năm 2016 thì cụ H chết. Đến năm 2017, 2018 các nguyên đơn yêu cầu ông Đ giao trả lại phần đất 3.000m2 đã được cụ H cho, nhưng ông Đ không giao trả lại.

Đối với phần thổ cư, vườn tạp thuộc thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), tờ bản đồ số 05, diện tích là 3.431m2 (đo thực tế 3.459,2m2), tọa lạc tại xã T, huyện H (giáp lộ ĐT 841), phần đất này hiện tại do ông Đặng Văn Đ quản lý và đứng tên giấy quyền sử dụng, khi còn sống cụ H chia cho các nguyên đơn mỗi người một nền nhà ngang 05m, chiều dài từ lộ ĐT 841 đến sau hậu.

Nay, bà M, bà T yêu cầu ông Đ trả cho các bà những phần đất đã được cụ H cho như sau:

+ Bà M: Diện tích 3.000m2 (đo thực tế) đất ruộng thuộc một phần các thửa 594, tờ bản đồ số 6 đất lọa lạc xã T, huyện H; Diện tích 281,2m2 thổ cư (đo thực tế) cặp về hướng Bắc (ngang 05m, chiều dài từ lộ 841 đến phía sau) thuộc thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), tờ bản đồ số 05, tọa lạc tại xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

+ Bà T: Diện tích 3.000m2 (đo thực tế) đất ruộng thuộc một phần các thửa 594, 603, 609, tờ bản đồ số 6 đất lọa lạc xã T, huyện H; Diện tích 271,3m2 thổ cư (đo thực tế) cặp về hướng Nam - theo chiều hướng Đông là lộ 841 (ngang 05m, chiều dài từ lộ 841 đến phía sau) thuộc thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), tờ bản đồ số 05, tọa lạc tại xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn ông Đặng Văn Đ, đồng thời là đại diện cho những người liên quan bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H, chị Trần Thị yến N, anh Đặng Bảo L: Thống nhất với ý kiến của bà M, bà T khai về phần cha, mẹ và anh, chị, em. Sau khi cha, mẹ ông Đ chết có để lại phần đất mộng ở xã T, diện tích khoảng 12.000m2 và phần thổ cư vườn tạp giáp lộ ĐT841, trên đó có căn nhà của cha, mẹ. Nhà và các phần đất này do bà Đặng Thị H là chị một (không có chồng, con) quản lý; Đối với phần đất ruộng thuộc thửa 609, 594, 603 tờ bản đồ số 6, tọa lạc xã T, huyện H diện tích khoảng 11.000m2, không biết vì sao vợ chồng ông Nguyễn Văn Th, bà Đặng Thị M canh tác và đứng tên quyền sử dụng đất. Đến năm 2001, ông Đ nhận chuyển nhượng lại của ông Nguyễn Văn Th và ông Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do đó phần đất này là tài sản của riêng ông Đ, không phải của cha, mẹ để lại, nên ông Đ không thống nhất theo yêu cầu đòi đất của các bà M, bà T. Do vào năm 2014, vợ trước của ông Đ (là bà Bế) kiện đòi chia tài sản chung với ông Đ, nên ông Đ khai là đất của cha ông Đ và cha ông Đ đã cho bà M, bà T, bà Em mỗi bà 3.000m2 nhằm để đối phó với bà Bế; Đối với phần thổ cư, vườn tạp thuộc thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), tờ bản đồ số 05, diện tích là 3.431m2 cặp lộ ĐT 841 tọa lạc tại xã T, huyện H. Vào năm 2015, cha ông Đ là cụ Đặng Văn H đã làm hợp đồng tặng cho riêng ông Đ và ông Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên ông Đ không thống nhất theo các yêu cầu đòi đất của các bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T.

- Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, Người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Tiến Trọng trình bày: Vào ngày 16/01/2016, hộ ông Đ, bà Hoa có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh thị xã Hồng Ngự (gọi tắt là Ngân hàng) số tiền 530.000.000 đồng, đã trả được 100.000.000 đồng, còn nợ 430.000.000 đồng. Nay Ngân hàng với ông Đặng Văn Đ và bà Đặng Thị H, bà Đoàn Thị T tự nguyện thỏa thuận và thống nhất với nhau như sau:

Ông Đặng Văn Đ, bà Đặng Thị H, bà Đoàn Thị T có trách nhiệm liên đới trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã Hồng Ngự số tiền vay gốc hiện còn đến ngày 15/5/2020 là 430.000.000 đồng và lãi suất tính đến ngày 15/5/2020 là 14.136.986 đồng và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký cho đến khi trả xong nợ. Ngoài ra, các bên còn thống nhất, nếu ông Đặng Văn Đ, bà Đặng Thị H, bà Đoàn Thị T không thực hiện việc trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp trong các hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ vay theo quy định.

- Đối với những nguời liên quan là con cụ H, cụ L không có ý kiến khác và cũng không yêu cầu trong vụ án; những người liên quan phía ông Đ thống nhất theo ý kiến của ông Đ; những người liên quan phía bà M, bà T thống nhất theo ý kiến của bà M, bà T.

Tại bản án sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 15/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện H đã quyết định:

1. Chấp nhận phần yêu cầu của các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T, về việc yêu cầu bị đơn ông Đặng Văn Đ trả lại cho mỗi bà 3.000m2 đất trồng lúa nước, tại các thửa 594, 603, 609, tờ bản đồ số 06 thuộc ấp 3, xã Thường Phước 1, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

2. Buộc hộ bị đơn ông Đặng Văn Đ (gồm: ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H (Họa), Trần Thị Yến N, Đặng Bảo L) có nghĩa vụ giao trả lại cho:

+ Nguyên đơn bà Đặng Thị M 3.000m2 đất, thuộc một phần thửa 594, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. (Vị trí trong phạm vi các điểm M3, M5, M6, trở lại M3 theo sơ đồ đo đạc ngày 12/7/2019).

+ Nguyên đơn bà Đặng Thị T 3.000m2 đất, thuộc một phần các thửa 594, 603, 609, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước và BCS, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. (Vị trí trong phạm vi các điểm M1, M2, M3, M6, M7, M8 trở lại M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 12/7/2019).

(Hai phần đất trên giáp ranh nhau, hiện do hộ ông Đặng Văn Đ đứng tên GCNQSDĐ và đang quản lý canh tác, riêng thửa 609 chưa được cấp GCNQSDĐ - Vị trí, số đo thực tế của hai phần đất trên được thể hiện tại sơ đồ đo đạc số 06/2019 ngày 12/7/2019 và sơ đồ xác định diện tích từ mãnh trích đo địa chính số 06/2019 kèm theo).

3. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - đại diện là ông Nguyễn Tiến Trọng, chức vụ: Phó Giám đốc Chi nhánh thị xã Hồng Ngự với ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H (Họa), là: Ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã Hồng Ngự số tiền vay gốc là 430.000.000 đồng và lãi tính đến ngày 15/5/2020 là 14.136.986 đồng và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký số: 6508LAV201900355 ngày 16/01/2019 cho đến khi trả xong nợ.

Trường hợp ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H không thực hiện việc trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì Cơ quan thi hành án dân sự có quyền xử lý tài sản thế chấp trong các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 062019.002/HĐTC ngày 14/01/2019; số: 2016.009/HĐTC ngày 28/01/2016; số: 2017.31/HĐTC và Số: 2017.32/HĐTC cùng ngày 26/6/2017 để thi hành án theo quy định, (trừ diện tích 4.675,7m2 tại một phần các thửa 594, 603, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, đã được tuyên giao trả cho bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T như nêu trên).

4. Sau khi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp giải chấp giao trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ ông Đặng Văn Đ, (Gồm: ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H, Trần Thị Yến N, Đặng Bảo L) có trách nhiệm cùng với bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký làm thủ tục sang tên quyền sử dụng các phần đất được tuyên giao trả cho bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T tại một phần các thửa 594, 603, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp như nêu trên theo quy định của pháp luật. Riêng bà Đặng Thị T được quyền đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 1.324,3m2 thuộc một phần thửa 609, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước và BCS, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp (do chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ai).

Trường hợp hộ ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H, Trần Thị Yến N, Đặng Bảo L không tự nguyện thực hiện việc làm thủ tục sang tên quyền sử dụng các phần đất như nêu trên cho hộ bà Đặng Thị M, hộ bà Đặng Thị T, thì đề nghị Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Đồng Tháp thu hồi diện tích 3.000m2 đất, thuộc một phần thửa 594, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đã cấp cho hộ ông Đặng Văn Đ tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 492339 ngày 04/10/2004 để cấp lại cho hộ bà Đặng Thị M; Thu hồi diện tích 742,3m2 đất, thuộc một phần thửa 594, và diện tích 933,4m2 đất, thuộc một phần thửa 603, đều tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đã cấp cho hộ ông Đặng Văn Đ tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 492339 ngày 04/10/2004 để cấp lại cho hộ bà Đặng Thị T.

5. Không chấp nhận phần yêu của các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T, về việc yêu cầu ông Đặng Văn Đ giao trả cho mổi bà một nền đất ngang 05 mét, dài từ lộ 841 đến sau hậu, (phần bà T diện tích 271,3m2; phần bà M diện tích 281,2m2), đều mục đích sử dụng: trồng lúa nước nước và đất ở, thuộc thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), tờ bản đồ số 05, tọa lạc tại ấp 1, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

6. Về Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:

- Các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T đã nộp xong.

- Bị đơn ông Đặng Văn Đ có nghĩa vụ hoàn trả lại cho các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T số tiền là 2.915.000 đồng.

7. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Nguyên đơn bà Đặng Thị M phải chịu 2.898.775 đồng (lấy tròn 2.898.000 đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm (do không được chấp nhận một phần yêu cầu), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 4.730.000 đồng tại biên lai thu số BG/2015 0004151 ngày 28/12/2018 của Chi cục thi hành án huyện H, tỉnh Đồng Tháp. Vậy bà Đặng Thị M đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do chênh lệch thừa của biên lai thu nêu trên là 1.832.000 đồng.

- Nguyên đơn bà Đặng Thị T phải chịu 2.851.525 đồng (lấy tròn 2.851.000 đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm (do không được chấp nhận một phần yêu cầu), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 4.730.000 đồng tại biên lai thu số BG/2015 0004148 ngày 28/12/2018 của Chi cục thi hành án huyện H, tỉnh Đồng Tháp. Vậy bà Đặng Thị T đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do chênh lệch thừa của biên lai thu nêu trên là 1.879.000 đồng.

- Bị đơn ông Đặng Văn Đ, người liên quan bà Đặng Thị H), bà Đoàn Thị T liên đới nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 27.383.000 đồng => (của nghĩa vụ giao trả đất và 50% ghi nhận trả nợ Ngân hàng).

- Hoàn trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 13.563.000 đồng theo biên lai thu số BH/2018 0001030 ngày 10/10/2019 của Chi cục thi hành án huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

Ngày 26/5/2020, bà M, bà T có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu ông Đặng Văn Đ phải chia cho mỗi người một nền nhà ngang 5m, dài từ lộ 841 đến sau hậu đất như đã yêu cầu tại phiên tòa sơ thẩm.

- Tại phiên tòa phúc thẩm.

+ Nguyên đơn: Đại diện theo ủy quyền bà M, bà T trình bày: Bà M, bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

+ Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Phần đất tranh chấp thuộc thửa 784, cụ H tặng cho ông Đ, trong khi đất này là của cụ H và cụ L. Khi Tòa án cấp sơ thẩm đo đạc, thẩm định thì phần đất nguyên đơn có yêu cầu trả đã bán cho bà Hà. Nhưng sau đó, các nguyên đơn có yêu cầu chia 2 nền nhà từ giáp đất bà Hà đo về hướng nhà của ông Đ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét thẩm định lại. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử hủy một phần bản án sơ thẩm, giao cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại để đảm bảo yêu cầu của các nguyên đơn.

+ Bị đơn ông Đặng Văn Đ trình bày: Diện tích đất 3.431m2 đất thuộc thửa 784 (1286, 1287) giáp lộ DDT841 là của cha mẹ ông Đ là cụ H và cụ L tạo lập. Khi cụ H, cụ L còn sống đã bán 1 nền nhà cho ông Sỵ. Đến năm 2015, cụ H đã ký hợp đồng tặng cho ông Đ, nên diện tích này là tài sản riêng của ông Đ. Vì vậy, ông Đ không đồng ý trả cho bà M và bà T.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm.

Về nội dung: Kháng cáo của bà M, bà T nộp trong thời gian luật định, có nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, được xem là kháng cáo hợp lệ. Xét kháng cáo của bà M, bà T là không có căn cứ để chấp nhận. Bởi vì, bà M và bà T không cung cấp được chứng cứ chứng minh cụ H tặng cho 02 bà 02 nền nhà. Đối với yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất tại phiên tòa phúc thẩm là không có căn cứ để chấp nhận. Bởi vì, tại tòa án sơ thẩm, các đương sự chỉ yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu ông Đ trả lại diện tích đất mà cụ H đã cho bà M và bà T, không yêu cầu chia thừa kế.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét thấy, bà M, bà T yêu cầu ông Đ trả cho các bà phần đất ruộng diện tích 3.000m2 ở ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp do cụ H, cụ L đã chia cho các bà. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu chia đất ruộng của bà M, bà T. Các đương sự đều không có kháng cáo nên phần này có hiệu lực từ quyết định của bản án sơ thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bà M, bà T yêu cầu ông Đ chia cho mỗi bà 01 nền nhà ngang 5m, dài từ lộ 841 đến sau hậu đất.

[3] Đối với kháng cáo của bà M, bà T yêu cầu chia nền nhà cặp lộ 841, dài đến sau. Hội đồng xét xử xét thấy, nguồn gốc phần đất bà M, bà T yêu cầu chia cho mỗi bà một nền nhà là tại thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), có tổng diện tích 3.429m2, mục đích sử dụng: đất ở và trồng lúa nước, tờ bản đồ số 05, xã T, huyện H, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là đất của cụ H và cụ L tạo lập và sử dụng, do cụ H được cấp quyền sử dụng đất năm 2002, cấp đổi năm 2013. Bà M và bà T cho rằng được cụ H và cụ L cho năm 2014, nhưng các bà không cung cấp được chứng cứ chứng minh đã được tặng cho. Trong khi đó, ngày 03/7/2015, thì cụ H đã ký Hợp đồng tặng cho ông Đ. Như vậy, phần của cụ H đã được cụ H tặng cho ông Đ, và trước khi tặng cho ông Đ thì cụ H không để lại giấy tờ gì xác định là đã tặng cho bà M và bà T. Do đó, việc bà M, bà T cho rằng khi còn sống cụ H, cụ L có cho các bà mỗi bà một nền thổ cư tại phần đất này ngang 05m, dài từ lộ 841 tới sau hậu đất là không có cơ sở. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà M và bà T.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự có yêu cầu chia thừa kế. Xét thấy, các nguyên đơn chưa yêu cầu Tòa án giải quyết, nên nếu các nguyên đơn có yêu cầu thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Xét Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử hủy một phần bản án sơ thẩm. Xét thấy, như đã phân tích ở phần trên, đề nghị của Luật sư là không có cơ sở để chấp nhận.

[6] Xét đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm được giữ nguyên nên bà M, bà T phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự,

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 158, 164, 166, 168, 292, 303, 457, 459, 463, 466 Bộ luật Dân sự; các Điều 66, 95, 100, 101, 167, 203 Luật đất đai 2013;

Điểm a, điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đặng Thị M và bà Đặng Thị T.

- Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 15/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện H.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T, về việc yêu cầu bị đơn ông Đặng Văn Đ trả lại cho mỗi bà 3.000m2 đất trồng lúa nước, tại các thửa 594, 603, 609, tờ bản đồ số 06 thuộc ấp 3, xã Thường Phước 1, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

2. Buộc hộ bị đơn ông Đặng Văn Đ (gồm: ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H, Trần Thị Yến N, Đặng Bảo L) có nghĩa vụ giao trả lại cho:

+ Nguyên đơn bà Đặng Thị M 3.000m2 đất, thuộc một phần thửa 594, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. (Vị trí trong phạm vi các điểm M3, M5, M6, trở lại M3 theo sơ đồ đo đạc ngày 12/7/2019).

+ Nguyên đơn bà Đặng Thị T 3.000m2 đất, thuộc một phần các thửa 594, 603, 609, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước và BCS, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. (Vị trí trong phạm vi các điểm M1, M2, M3, M6, M7, M8 trở lại M1 theo sơ đồ đo đạc ngày 12/7/2019).

(Hai phần đất trên giáp ranh nhau, hiện do hộ ông Đặng Văn Đ đứng tên GCNQSDĐ và đang quản lý canh tác, riêng thửa 609 chưa được cấp GCNQSDĐ - Vị trí, số đo thực tế của hai phần đất trên được thể hiện tại sơ đồ đo đạc số 06/2019 ngày 12/7/2019 và sơ đồ xác định diện tích từ mãnh trích đo địa chính số 06/2019 kèm theo).

3. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - đại diện là ông Nguyễn Tiến Trọng, chức vụ: Phó Giám đốc Chi nhánh thị xã Hồng Ngự với ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H là: Ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã Hồng Ngự số tiền vay gốc là 430.000.000 đồng và lãi tính đến ngày 15/5/2020 là 14.136.986 đồng và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký số: 6508LAV201900355 ngày 16/01/2019 cho đến khi trả xong nợ.

Trường hợp ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H không thực hiện việc trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì Cơ quan thi hành án dân sự có quyền xử lý tài sản thế chấp trong các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 062019.002/HĐTC ngày 14/01/2019; số: 2016.009/HĐTC ngày 28/01/2016; số: 2017.31/HĐTC và Số: 2017.32/HĐTC cùng ngày 26/6/2017 để thi hành án theo quy định, (trừ diện tích 4.675,7m2 tại một phần các thửa 594, 603, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, đã được tuyên giao trả cho bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T như nêu trên).

4. Sau khi giải chấp Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp giải chấp giao trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Đặng Văn Đ, (Gồm: ông Đặng Văn Đ, bà Đoàn Thị T, bà Đặng Thị H, Trần Thị Yến N, Đặng Bảo L). Bà Đặng Thị T được quyền đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 1.324,3m2 thuộc một phần thửa 609, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước và BCS, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp (do chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ai).

Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Đồng Tháp thu hồi diện tích 3.000m2 đất, thuộc một phần thửa 594, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đã cấp cho hộ ông Đặng Văn Đ tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 492339 ngày 04/10/2004 để cấp lại cho hộ bà Đặng Thị M; Thu hồi diện tích 742,3m2 đất, thuộc một phần thửa 594, và diện tích 933,4m2 đất, thuộc một phần thửa 603, đều tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng là trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đã cấp cho hộ ông Đặng Văn Đ tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 492339 ngày 04/10/2004 để cấp lại cho hộ bà Đặng Thị T.

5. Các đương sự có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kê khai, đăng ký, điều chỉnh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

6. Không chấp nhận phần yêu của các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T, về việc yêu cầu ông Đặng Văn Đ giao trả cho mỗi bà một nền đất ngang 05 mét, dài từ lộ 841 đến sau hậu, (phần bà T diện tích 271,3m2; phần bà M diện tích 281,2m2), đều mục đích sử dụng: trồng lúa nước nước và đất ở, thuộc thửa 748 (nay là thửa 1286, 1287), tờ bản đồ số 05, tọa lạc tại ấp 1, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

7. Về Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:

- Các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T đã nộp xong.

- Bị đơn ông Đặng Văn Đ có nghĩa vụ hoàn trả lại cho các nguyên đơn bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị T số tiền là 2.915.000 đồng.

8. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Nguyên đơn bà Đặng Thị M phải chịu 2.898.775 đồng (lấy tròn 2.898.000 đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 4.730.000 đồng tại biên lai thu số BG/2015 0004151 ngày 28/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Đồng Tháp. Bà Đặng Thị M đã nộp xong tiền án phí dân sụ sơ thẩm và được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do chênh lệch thừa của biên lai thu nêu trên là 1.832.000 đồng.

- Nguyên đơn bà Đặng Thị T phải chịu 2.851.525 đồng (lấy tròn 2.851.000 đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sụ sơ thẩm đã nộp là 4.730.000 đồng tại biên lai thu số BG/2015 0004148 ngày 28/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Đồng Tháp. Bà Đặng Thị T đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do chênh lệch thừa của biên lai thu nêu trên là 1.879.000 đồng.

- Bị đơn ông Đặng Văn Đ, người liên quan bà Đặng Thị H, bà Đoàn Thị T liên đới nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 27.383.000 đồng => (của nghĩa vụ giao trả đất và 50% ghi nhận trả nợ Ngân hàng).

- Hoàn trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 13.563.000 đồng theo biên lai thu số BH/2018 0001030 ngày 10/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

8. Về án phí phúc thẩm:

- Bà Đặng Thị M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kháng cáo theo biên lai số 0003024 ngày 28/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Bà M đã nộp xong án phí phúc thẩm.

- Bà Đặng Thị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kháng cáo theo biên lai số 0003023 ngày 28/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Bà T đã nộp xong án phí phúc thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 304/2020/DS-PT ngày 30/09/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:304/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về