TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 304/2017/HS-ST NGÀY 31/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31.10.2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường B, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 372/2017/HSST ngày 17.10.2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 283/2017/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Lê Văn V - Sinh năm: 197X. ĐKNKTT: Thôn T, xã V, huyện L, tỉnh Hà Nam. Nơi cư trú: Không cố định. Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hoá: 4/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Lê Văn C. Con bà: Phạm Thị H. Danh chỉ bản số: 398 lập ngày 24/7/2017 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:
+ Ngày 15/6/1999, Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (Đã xóa án).
+ Ngày 06/02/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 03 năm tù treo, thời gian thử thách 04 năm về tội Hiếp dâm (Đã xóa án).
+ Ngày 26/9/2008 Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (Đã xóa án).
+ Ngày 17/01/2012 Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã xóa án).
Bị bắt quả tang ngày: 18/7/2017. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do nghiện ma túy nên khoảng 17h30 ngày 18/07/2017, Lê Văn V đi bộ đến đường T, phường Đ, quận H, Hà Nội để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, V gặp và nhờ L (là bạn ngoài xã hội) mua ma túy, V đưa cho L 115.000 đồng (Một trăm mười lăm nghìn đồng) để mua ma túy. Khoảng 10 phút sau, L quay lại và đưa cho V 01 (Một) gói nhỏ bên trong là ma túy (Heroine). V cầm gói ma túy bỏ vào túi quần phía sau bên phải rồi đi tìm nơi sử dụng. Tại khu vực trước cửa số nhà 89 đường T, phường Đ, quận H, Hà Nội, V bị tổ công tác Công an phường T, quận H, Hà Nội kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ gói ma túy trên.
Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số ma túy đã thu giữ của Lê Văn V.
Tại bản kết luận giám định số: 4777/KLGĐ-PC54 ngày 17/08/2017 của Phòng Phòng kỹ thuật hình sự – Công an TP. Hà Nội kết luận: chất bột màu trắng bên trong 01 (Một) gói là ma túy loại Heroine, trọng lượng: 0,168 gam.
Đối với L là người bán ma túy cho V vào ngày 18/07/2017: Do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên khi cơ quan CSĐT tiến hành dẫn giải Lê Văn V, V chỉ được địa điểm giao dịch tại khu vực trước số nhà 93 đường T, quận H nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy, nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý.
Tại bản Cáo trạng số 294/CT/VKS-HS ngày 13 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội đã truy tố Lê Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trong quá trình điều tra và nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng giữ quan điểm truy tố với Lê Văn V như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù giam. Tịch thu tiêu huỷ 0,168 gam Heroine.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, bằng vật chứng thu giữ của bị cáo, qua giám định là Heroine có trọng lượng 0,168 gam cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lê Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội danh và hình phạt quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác.
[4] Về nhân thân của bị cáo: Có 04 tiền án năm 1999, năm 2004, năm 2008 và năm 2012 về tội Trộm cắp tài sản, Hiếp dâm và Tàng trữ trái phép chất ma tuý (đều đã xóa). Chứng tỏ bị cáo đã được cơ quan pháp luật giáo dục cũng như áp dụng chính sách hình sự của Nhà nước đối với các loại tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, song bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, sửa đổi bản thân mà lại tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, lượng ma tuý bị cáo tàng trữ không nhiều do vậy Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
[6] Về quyết định hình phạt: Đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, nhẹ hơn so với khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, do vậy Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015 để cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, xét thấy theo các quy định nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định bị cáo Lê Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 nhưng thuộc trường hợp được áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015.
[7] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng. Tuy nhiên, xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 gói Heroine có trọng lượng là 0,168 gam.
[9] Đối với L là người bán ma túy cho V vào ngày 18/07/2017: Do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên khi cơ quan CSĐT tiến hành dẫn giải Lê Văn V, V chỉ được địa điểm giao dịch tại khu vực trước số nhà 93 đường T, quận H nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy, nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét.
[10] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Từ những nhận định trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 194, Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Lê Văn V: 18 (mười tám) tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18.7.2017.
Áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo việc thi hành án. Không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 gói Heroine có trọng lượng là 0,168 gam (Một bì giấy đã niêm phong, bên ngoài có chữ ký của Lê Văn V và Giám định viên).
Tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 13.10.2017, tang vật số 04/18.
4.Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 1 phần I Mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết: Bị cáo Lê Văn V phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 304/2017/HS-ST ngày 31/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 304/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về