Bản án 303/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 303/2019/HS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 303/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

TCT, sinh năm 1986 tại tỉnh Nghệ An; Thường trú: T6, xã TA, huyện TC, tỉnh NA; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông TCT1, đã chết và bà PTT3, sinh năm 1953, vợ tên TTL, sinh năm 1990, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án: Bản án 34/2017/HS-ST ngày 30/5/2017 Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/7/2017, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 13/7/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty TNHH MTV sản xuất thương mại dịch vụ xây dựng Phú Cường; trụ sở: Thửa đất số 3637 tờ bản đồ số 11, khu phố Tân Long, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp: Ông TVC, sinh năm 1987; thường trú: TST, xã PT, huyện BĐ, tỉnh BP; tạm trú: khu phố TL, phường TĐH, thị xã DA, tỉnh BD, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà NTV, sinh năm 1985; thường trú: Thôn NT, xã NL, huyện NT, tỉnh NĐ; tạm trú: 4/38 khu phố BT1, phường TG, thị xã TA, tỉnh BD, vắng mặt. 

+ LVH, sinh năm 1973; thường trú: K3, thị trấn TT, huyện TT, tỉnh AG; vắng mặt

+ TTL, sinh năm 1990, thường trú: X4, xã ST, huyện HS, tỉnh HT, vắng mặt.

Người làm chứng: Trần Văn Xiêng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 08/3/2018 TCT điều khiển xe mô tô biển số 37L6-2793 đến kho vật liệu xây dựng của Công ty TNHH MTV sản xuất thương mại dịch vụ xây dựng Phú Cường tại địa chỉ T5/9 khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, Thắng lén lút vào trong kho (kho không khóa cửa chỉ móc ổ khóa) lấy trộm 74 thanh kim loại (đã qua sử dụng) thì bị người dân phát hiện bắt quả tang. Trong quá trình điều tra T khai nhận do Thắng quen biết với VVN, vào ngày 05/3/2018 N rủ T đi trộm cắp tài sản thì T đồng ý. Sau đó T điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 67B1-433.04 đến địa điểm kho chứa hàng trên, tại đây cả hai đã lấy trộm 02 lần với tổng số tài sản là 08 thùng khung trần nổi nhãn hiệu Đệ Nhất loại T 3,6m (mỗi lần lấy trộm 04 thùng, N chở 02 thùng và T chở 02 thùng). Sau khi lấy trộm được 08 thùng khung trần nổi, N và T đem đến cửa hàng thạch cao “Mạnh Dũng” địa chỉ 4/38 khu phố Bình Thuận 1, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An bán cho chị NTV được số tiền 3.150.000 đồng. N, T chia đôi số tiền này đã tiêu xài hết.

Ngoài ra, Thắng còn khai nhận:

Sau khi được Nhập rủ đi trộm cắp tài sản tại kho hàng trên, thì T nảy sinh ý định tự một mình đi trộm cắp tài sản và không tham gia cùng N. T đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại kho chứa hàng trên, gồm số tài sản như sau:

+ Ngày 06/3/2018 T đã lấy trộm: 915 cái tăng đơ phụ kiện trần thạch cao, 2.251 cái khoá liên kết trần thạch cao, 11 hộp keo xử lý mối nối, 40 cuộn keo dán trần thạch cao.

+ Ngày 07/3/2018 T đã lấy trộm: 06 bó kim loại chữ U bắn trần chìm (mỗi bó 20 cây, mỗi cây dài 4m).

+ Sáng ngày 08/3/2018 T đã lấy trộm: 02 bó kim loại chữ U dựng vách (mỗi bó 10 cây, mỗi cây dài 2,8m).

Sau khi lấy trộm được số tài sản trên T đem đến cửa hàng thạch cao “Mạnh Dũng” bán cho chị NTV được số tiền 1.770.000 đồng.

Tang vật thu giữ gồm:

+ 17 thùng khung trần nổi lại T 3,6m.

+ 15 thùng khung trần nổi loại T 0,6m

+ 54 thanh khung trần nổi loại T 0,6m.

+ 915 cái tăng đơ phụ kiện trần thạch cao.

+ 2.251 cái khoá liên kết trần thạch cao.

+ 11 (mười một) hộp keo xử lý mối nối.

+ 40 (bốn mươi) cuộn keo dán trần thạch cao.

+ 06 (sáu) bó kim loại chữ U bắn trần chìm (mỗi bó 20 cây, mỗi cây dài 4m).

+ 02 (hai) bó kim loại chữ U dựng vách (mỗi bó 10 cây, mỗi cây dài 2,8m).

+ 01 (một) ổ khoá nhãn hiệu Zsolex-R bằng kim loại. VVN dùng thanh sắt phá khoá khi đột nhập vào kho chứa hàng.

+ 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Nokia 1202 màu xanh, xám. Bị cáo TCT dùng để liên lạc với N khi rủ nhau đi trộm.

+ 01 (một) thanh sắt dài khoảng 30 cm, màu đen, một đầu tù, một đầu nhọn, trên thân có dòng ký tự nổi CB3 (hình dạng giống cây đục). Bị cáo N nhặt được tại gần khu vực kho chứa hàng, dùng để phá khoá khi đột nhập vào kho.

+ 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Dream, màu đỏ đô, biển số 67B1 – 433.04, số máy LC150FMG01820245, số khung 67B143304 bị cáo N sử dụng làm phương tiện trong các lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên.

+ 01 (một) xe mô tô biển số 37L6 - 2793, số máy VDMD 1000064721, số khung VDMLCG015DM042221 của bị cáo TCT sử dụng làm phương tiện trong các lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên.

+ Số tiền 1.063.000 đồng còn lại bị cáo TCT có được từ việc bán tài sản trộm cắp mà có.

Tại biên bản định giá tài sản và bản kết luận định giá tài sản ngày 23/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Thuận An xác định: 08 thùng khung trần nổi loại T 3,6m trị giá 5.800.000 đồng (VVN và TCT lấy trộm).

Tại biên bản định giá tài sản và bản kết luận định giá tài sản ngày 08/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Thuận An xác định: 915 cái tăng đơ phụ kiện trần thạch cao trị giá 1.098.000 đồng, 2.251 cái khoá liên kết trần thạch cao trị giá 1.800.800 đồng, 11 hộp keo xử lý mối nối trị giá 1.100.000 đồng, 40 cuộn keo dán trần thạch cao trị giá 1.600.000 đồng, 06 bó kim loại chữ U bắn trần chìm (mỗi bó 20 cây, mỗi cây dài 4m) trị giá 1.860.000 đồng, 02 bó kim loại chữ U dựng vách (mỗi bó 10 cây, mỗi cây dài 2,8m) trị giá 640.000 đồng và 74 thanh kim loại (Đã qua sử dụng có tổng trọng lượng 24kg) trị giá 192.000 đồng. Tổng cộng 8.290.800 đồng (Trần Công Thắng lấy trộm).

Tại Cáo trạng số 322/CT-VKS-TA ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo TCT về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo TCT mức hình phạt từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định pháp luật như sau: Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia 1202 màu xanh xám thu giữ của TCT, đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 1.063.000 đồng thu giữ của TCT, đây là số tiền thu lợi bất chính từ việc bán tài sản trộm cắp mà có nên đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với vật chứng là số tài sản VVN và TCT lấy trộm; chiếc xe mô tô biển số 67B1-433.04 thu giữ của VVN, 01 ổ khóa nhãn hiệu Zsolex-R bằng kim loại (đã bị hư hỏng nặng) đã được xử lý tại bản án số 101/2019/HSST ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Đối với xe mô tô biển số 37L6-2793 bị cáo T sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm, quá trình điều tra xác định, người đứng tên đăng ký là bà TTN,, hiện bà N đã đi xuất khẩu lao động nên Cơ quan điều tra không tiến hành làm việc được, qua làm việc T và vợ đã mua lại chiếc xe này từ bà N nên đề nghị tiếp tục giao cho cơ quan công an xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra xác định bà NTV mua lại tài sản do bị cáo N và TCT trộm cắp nhưng bà V không biết đây là tài sản do N và T trộm cắp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không xem xét khởi tố xử lý là có căn cứ.

Tại phiên tòa bị cáo TCT đã khai nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến người đại diện hợp pháp của bị hại trong quá trình điều tra: Tài sản đã thu hồi lại cho công ty nên không có yêu cầu.

Ý kiến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NTV trong quá trình điều tra: Số tiền 11.120.000 đồng bà V đã bỏ ra để mua số tài sản trộm cắp đã được giải quyết tại bản án số 101/2019/HSST ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nên không có yêu cầu.

Ý kiến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan TTL trong quá trình điều tra: Bà là vợ TCT, nguồn gốc chiếc xe mô tô biển số 37L6-2793 là xe của chị ruột T tên TTN, tháng 9/2017 bà mua lại, bà cho T mượn xe đi lại hằng ngày.

Lời khai của người làm chứng đã trình bày trong quá trình điều tra và không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo TCT đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Từ ngày 06/3/2018 đến ngày 08/3/2018 TCT đã vào kho chứa hàng của Công ty TNHH TMV sản xuất thương mại Phú Cường tại địa chỉ T5/9 khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương lấy trộm 915 cái tăng đơ phụ kiện trần thạch cao, 2.251 cái khóa liên kết trần thạch cao, 11 hộp keo xử lý mối nối, 40 cuộn keo dán trần thạch cao, 06 bó kim loại chữ U bắn trần chìm (mỗi nó 20 cây, mỗi cây dài 4m), 02 bó kim loại chữ U dựng vách (mỗi bó 10 cây, mỗi cây dài 2,8m) và 74 thanh kim loại (đã qua sử dụng có tổng trọng lượng 24kg). Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 8.290.800 đồng. Ngoài ra, vào ngày 05/3/2018 TCT cùng với VVN lấy trộm 08 thùng khung trần nổi loại T 3,6m trị giá 5.800.000 đồng Do đó Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo TCT về “Tội trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Quá trình điều tra bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Do đó cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo thực hiện với vai trò giúp sức tích cực.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên và chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội mới, do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm g và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản đã thu hồi trả lại cho công ty. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Đối với vật chứng là số tài sản VVN và TCT lấy trộm, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An thu giữ, qua điều tra xác định thuộc sở hữu của Công ty TNHH MTV sản xuất thương mại Phú Cường nên đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Công ty TNHH MTV sản xuất thương mại Phú Cường là đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết tại bản án số 101/2019/HSST ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nên không xem xét. Quá trình điều tra xác định bà NTV mua lại tài sản do bị cáo N và TCT trộm cắp nhưng bà V không biết đây là tài sản do N và T trộm cắp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An không xem xét khởi tố xử lý là có căn cứ.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 67B1-433.04 thu giữ của VVN, 01 ổ khóa nhãn hiệu Zsolex-R bằng kim loại (đã bị hư hỏng nặng) đã được xử lý tại bản án số 101/2019/HSST ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 1.063.000 đồng thu giữ của bị cáo T là số tiền thu lợi bất chính và điện thoại di động hiệu Nokia 1202 là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với xe mô tô biển số 37L6-2793 bị cáo T sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm, quá trình điều tra xác định, người đứng tên đăng ký là bà TTN, hiện bà N đã đi xuất khẩu lao động nên Cơ quan điều tra không tiến hành làm việc được, qua làm việc T và vợ đã mua lại chiếc xe này từ bà N nên tiếp tục giao cho cơ quan công an xử lý theo thẩm quyền.

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 47; điểm h và điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo TCT phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo TCT 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/7/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.063.000 đồng và điện thoại di động Nokia 1202.

Tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An 01 xe mô tô 02 bánh (kiểu dáng Dream), nhãn hiệu DEAHAN, số loại SUPER 100-A, dung tích xy lanh 97cm3 mang biển kiểm soát 37L6-2793, số khung VDMLCG015DM042221, số máy VDMD1000064721.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/3/2018 và ủy nhiệm chi ngày 18/3/208).

3. Về án phí: Bị cáo TCT phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 303/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:303/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về