Bản án 302/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 302/2017/HSST NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 09 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 333/2017/HSST ngày 14/09/2017 và theo Quyết đinh đưa ra xét xử số 314/QĐXX-ST ngày 14/09/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu H  – sinh năm 1984; HKTT: 11B, B4B  Bách Khoa, phường Bách Khoa, quận H BT, HN; Chỗ ở: Số 6/136/141 Giáp Nhị, phường Thịnh Liệt, quận HM, HN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Huy T, con bà: Mai Thị T ; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con cả ; Có chồng là Lê Hữu Th (đã ly hôn ) ; Có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2017; bản sự số 601 lập ngày 26/06/2017 của Cô bị cáo Nguyễn Thị Thu H  tiền án, tiền sự : Không; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa) .

* Người bị hại: Bà Mai Thị T – sinh năm 1961

HKTT: 11 b, B4B Bách Khoa, phường BK, quận HBT, HN.

Chỗ ở : Số 6/136/141 Giáp Nhị, phường Thịnh Liệt, quận HM, HN (Có mặt tại phiên tòa)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Tất T sinh năm 1974

HKTT và chỗ ở hiện nay : Số 75, Phố Vọng, phường Đồng Tâm, quận H, HN. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05/04/2017, tại số 6/136/141 Giáp Nhị, phường Thịnh Liệt, quận HM, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thị H đã lấy chìa khóa trong ngăn kéo tủ cạnh két sắt đặt tại phòng ở tầng 3 của chị Nguyễn Thị Hằng N ( em gái H) mở két sắt của bà Mai Thị T (là mẹ của H) lấy trộm 01 nhẫn, 01 kiềng, 01 đôi hoa tai và 01 mặt dây chuyền bằng vàng ý. Sau đó H mang số tài sản trên đi bán ở cửa hàng Bảo Tín Minh Châu được số tiền 28.033.000 đồng. H cầm số tiền trên và lấy thêm tiền của mình mang trả cho anh Đỗ Tất T ( sinh năm 1974; HKTT và chỗ ở:75 phố Vọng, Đồng Tâm, Hai Bà Trưng, Hà Nội): 30.500.000 đồng. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, H chở con trai của H là Lê Minh Đ (sinh năm 2009) về nhà, sợ bị phát hiện nên Hằng đã dựng hiện trường giả nhà bị trộm lấy tài sản. H về nhà, mở khóa cổng, giấu ổ khóa trên sân thượng tầng 04. Sau đó, H để con trai ở tầng 1 và lên tầng 3, mở lại khóa két sắt, mở tủ quần áo và sang phòng của H mở tủ quần áo của H, lục tung đồ đặc tạo hiện trường như H cũng bị mất tài sản. H gọi điện báo cho bà T và nói nhà bị mất trộm. H và bà T đến công an phường T  trình báo.

Bà Mai Thị T  trình bày: Bà bị mất 01 chiếc nhẫn, 01 mặt dây chuyền, 01 kiềng và 01 đôi hoa tai bằng vàng ý. Đây là tài sản riêng của bà mua từ khoảng năm 2014, không có giấy tờ mua bán, bà T đề nghị được nhận lại số tài sản trên.

Theo kết luận định giá tài sản số 124 ngày 08/06/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự quận Hoàng Mai kết luận: 01 nhẫn vàng ý hàm lượng vàng 75%, 01 hoa tai vàng ý hàm lượng 75 %, tổng trọng lượng nhẫn và hoa tai là 4, 097 chỉ có giá trị 10.367.000 đồng; 01 kiềng vàng hàm lượng vàng 75 %, 01 mặt dây vàng hàm lượng vàng 75%, tổng trọng lượng kiềng và mặt dây là: 6,92 chỉ có giá trị là : 17.597.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là: 27.964.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã dẫn giải H  đến cửa hàng Bảo Tín Minh Châu số 15 Trần Nhân Tông, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đại diện cửa hàng cung cấp khoảng 13 giờ 30 phút ngày 05/04/2017 có 01 phụ nữ ( sau biết đó là H ) đến bán số trang sức vàng ý nêu trên được 28.033.000 đồng (căn cứ phiếu mua hàng của Công ty Bảo Tín Minh Châu ), tuy nhiên số vàng trên đã được xử lý theo quy trình nên không còn để cung cấp cho cơ quan công an.

Cơ quan công an đã dẫn giải H đến địa chỉ số 75 Phố Vọng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, H  xác định được anh Đỗ Tất T là người đã nhận số tiền 30.500.000 đồng của H. Anh T khai do không biết về nguồn gốc số tiền trên của H là do phạm tội mà có,T đã giao nộp 30.500.000 đồng cho cơ quan công an.

Hiện số tiền trên đang nhập Chi cục Thi hành án quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Tại bản cáo trạng số 309/CT-VKS ngày 12/09/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai đã truy tố Nguyễn Thị Thu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm h, p, L khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thu H  từ 18 đến 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách từ 36 đến 40 tháng. Miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo

* Về bồi thường dân sự: Do tài sản không thể thu hồi  được, người bị hại bà Mai Thị T đề nghị được nhận  số tiền tương đương với giá trị tài tài sản đã bị Hằng chiếm đoạt theo kết luận định giá tài sản số 124 ngày 08/06/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Hoàng Mai là : 27.964.000 đồng và không có yêu cầu gì về dân sự. Đối với số tiền chênh lệch giá trị tài sản là 69.000 đồng bà T có nguyện vọng  cho lại bị cáo H.

Trả lại cho bị cáo H số tiền 2.467.000 đồng và  số tiền 69.000 đồng  là tiền chênh lệch giá trị tài sản do người bị hại Mai Thị T đã tự nguyện cho bị cáo. Tổng  số tiền trả lại cho bị cáo H là 2.536.000 đồng  hiện đang lưu giữ ở Chi cục thi hành án quận Hoàng Mai theo tài khoản số 3949 tại Kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, Hà Nội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

*Về xử lý vật chứng : Trả lại cho gia đình bà Mai Thị T 01 ổ khóa bằng kim loại, nhãn hiệu Việt Tiệp kích thước 5x8 cm, hiện đang nhập kho vật chứng Công an quận Hoàng Mai  theo phiếu thu số 325  ngày 25/09/2017.

Tại phiên tòa bị cáo H  khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận đã có hành vi Trộm cắp tài sản như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng.

Lời nói sau cùng bị cáo: bị cáo rất ân hận về hành vi của mình, bị cáo cũng đã có tuổi nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Xét hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo H :Ngày 05/04/2017, tại số 6/136/141 Giáp Nhị, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội bị cáo H đã mở trộm két sắt của bà Mai Thị T lấy trộm 01 nhẫn, 01 kiềng, 01 đôi hoa tai và 01 mặt dây chuyền bằng vàng ý, Hằng đem bán số tài sản trên tại cửa hàng Bảo Tín Minh Châu được số tiền là 28.033.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thu H đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian đang mang thai, phạm tội lần đầu bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, p, L khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

*Quyết định hình phạt: Căn cứ vào hành vi của bị cáo, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian đang mang thai, phạm tội lần đầu bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Người bị hại bà Mai Thị T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Giao bị cáo về chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Về bồi thường dân sự: Bị cáo H đã bán số nữ trang trộm cắp của bà T được số tiền là: 28.033.000 đồng và tiền riêng của bị cáo là 2.467.000 đồng, tổng cộng là: 30.500.000 đồng, bị cáo H đã đưa toàn bộ số tiền trên cho anh Đỗ Tất T. Anh T đã nộp toàn bộ số tiền 30.500.000 đồng cho cơ quan công an.

Ngày 11/04/2017 cơ quan công an đã chuyển toàn bộ số tiền trên đến Chi cục thi hành án quận Hoàng Mai theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949, tại kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Do tài sản không thể thu hồi  được, người bị hại bà Mai Thị T đề nghị được nhận số tiền tương đương với giá trị tài sản đã bị H chiếm đoạt kết luận định giá tài sản số 124 ngày 08/06/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Hoàng Mai là : 27.964.000 đồng và không có yêu cầu gì về dân sự. Đối với số tiền chênh lệch giá trị tài sản là 69.000 đồng  bà T có nguyện vọng  cho lại bị cáo H. Xét yêu cầu được nhận lại tài sản bằng tiền tương đương với giá trị tài sản đã bị mất là hoàn toàn chính đáng vì vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu của người bị hại bà Mai Thị T  trả lại cho bà T số tiền : 27.964.000 đồng hiện đang lưu giữ ở Chi cục thi hành án quận Hoàng Mai theo tài khoản số 3949 tại Kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Mai Thị T tự nguyện cho bị cáo H số tiền chênh lệch giá trị tài sản là 69.000 đồng.

Về số tiền 2.467.000 đồng là tiền riêng của bị cáo H, bị cáo đã dùng số tiền này để gộp với tiền do bị cáo trộm cắp mà có để đưa cho anh Đỗ Tất T. Xét đây là tiền riêng của bị cáo không phải tiền do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có được hoàn toàn không liên quan đến vụ án. HĐXX sau khi xem xét các tình tiết, chứng cứ trong vụ án thấy cần thiết trả lại cho bị cáo số tiền 2.467.000 đồng và  số tiền 69.000 đồng là tiền chênh lệch giá trị tài sản do người bị hại Mai Thị T đã tự nguyện cho bị cáo. Tổng  số tiền trả lại cho bị cáo Hằng là: 2.536.000 đồng hiện đang lưu giữ ở Chi cục thi hành án quận Hoàng Mai theo tài khoản số 3949 tại Kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, Hà Nội là phù hợp nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Anh Đỗ Tất T không biết về nguồn gốc số tiền 30.500.000 đồng  bị cáo Hằng đưa là do phạm tội mà có, anh T đã giao nộp toàn bộ số tiền trên cho cơ quan công an. Anh T cũng xác nhận việc bị cáo đã trả tiền cho anh nên anh không có yêu cầu gì đối với bị cáo H.

Xét bị cáo H đã trả tiền cho anh T, bản thân anh T cũng xác nhận việc đã nhận đủ tiền của bị cáo H và không có yêu cầu gì đối với bị cáo, đây là quan hệ giao dịch dân sự giữa anh T và bị cáo H đã thực hiện xong nghĩa vụ với nhau, anh T không có yêu cầu gì đối với bị cáo và không liên quan đến việc giải quyết trong vụ án này vì vậy HĐXX không xem xét.

*Về xử lý vật chứng : Trả lại cho gia đình bà Mai Thị T 01 ổ khóa bằng kim loại, nhãn hiệu Việt Tiệp kích thước 5x8 cm, hiện đang nhập kho vật chứng Chị cục thi hành án quận Hoàng Mai  theo phiếu thu số 325 ngày 25/09/2017.

* Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

* Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14.  Bị cáo Nguyễn Thị Thu H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 138; điểm h, p, L khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự.

Căn cứ  Điều 76,  Điều 99, Điều 231; Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 1 mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố:  Bị cáo Nguyễn Thị Thu H  phạm tội “Trộm cắp tài sản” .

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thu H : 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 3 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho UBND phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền cho bị cáo.

* Về bồi thường dân sự: Trả lại cho người bị hại bà Mai Thị T số tiền là 27.964.000 đồng hiện đang lưu giữ ở Chi cục thi hành án quận Hoàng Mai theo giấy nộp vào tài khoản số 3949 ngày 11/4/2017 tại Kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, Hà Nội.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thu H  số tiền: 2.536.000 đồng. Hiện đang lưu giữ ở Chi cục thi hành án quận Hoàng Mai theo giấy nộp vào tài khoản số 3949 ngày 11/4/2017 tại Kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, Hà Nội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

*Về xử lý vật chứng: Trả lại cho gia đình bà Mai Thị T 01 ổ khóa bằng kim loại, nhãn hiệu Việt Tiệp kích thước 5x8 cm. (hiện vật chứng trên được lưu giữ tại khô vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự nhuyện Hoàng Mai, theo Phiếu giao nhận vật chứng số 325/BBVC ngày 25 tháng 09 năm 2017).

* Về án phí:  Bị cáo Nguyễn Thị Thu H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại bà Mai Thị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 302/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:302/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về