Bản án 30/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH T

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25 /2021/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021;

Đối với bị cáo: Lê Quang Đ, sinh năm 1979 tại: xã T, huyện T, tỉnh T; Nơi ĐKHKTT: bản P, xã M, huyện M, tỉnh L;

Nơi ở hiện nay: thôn N, xã T, huyện T, T Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông : Lê Quang C, sinh năm 1941 và bà Trịnh Thị V, sinh năm 1948; vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1980, có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án: Ngày 23/7/2019, bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh L, xử phạt 24 tháng tù về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”, hiện tại chưa đi thi hành án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2021 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Lê Quang C, sinh năm 1941 Địa chỉ: thôn N, xã T, huyện T, T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 8 giờ 15 phút ngày 26 tháng 01 năm 2021, Tổ công tác đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Thọ Xuân trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực thôn B 2, xã X, huyện T đã phát hiện, bắt quả tang Lê Quang Đ, sinh năm 1979, trú tại thôn N, xã T, huyện T điều khiển xe mô tô không đội mũ bảo hiểm nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra thì phát hiện và thu giữ trong ví da màu nâu của Đ 01 gói giấy( dạng giấy báo) bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà, dạng cục vụn. Thu trong người Đ 02 bơm kim tiêm bằng nhựa ( chưa qua sử dụng); 01 lọ thủy tinh chứa dung dịch Novocain 3% ( nước cất). Đ khai nhận chất bột màu trắng ngà là ma túy. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng là ma túy vào phong bì niêm phong ký hiệu “ M”; 02 bơm kim tiêm và 01 lọ nước cất và bàn giao toàn bộ hồ sơ cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thọ Xuân. Vào hồi 13h00 cùng ngày, cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Quang Đ nhưng không thu giữ được gì. Về nguồn gốc ma túy trên, Lê Quang Đ khai nhận: Vào sáng ngày 26/01/2021, Đ mượn xe mô tô của ông Lê Quang C ( bố đẻ Đ) nói là mượn xe xuống vườn tưới cây. Sau khi lấy xe Đ điều khiển xe một mình đến xãT, huyện T gặp và mua ma túy của một người không quen biết với giá 50.000đ để sử dụng. Sau đó Đ đi xe quay về nhà, khi đến thôn B, xã X thì bị bắt quả tang. Ngày 26/01/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành niêm phong tang vật và ra Quyết định trưng cầu số 10/CSĐT, giám định về ma túy đối với tang vật đã thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “ M” thu của Lê Quang Đ. Tại bản kết luận giám định số 666/PC09 ngày 31 tháng 01 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn đựng trong phong bì niêm phong ký hiệu “ M” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,115g (không phẩy một một năm)gam, loại: Heroine.

Quá trình điều tra Lê Quang Đ khai nhận bản thân nghiện ma túy nên sáng ngày 26 tháng 01 năm 2021, Đ đi đến xã T, huyện T mua ma túy về sử dụng. Đ gặp một người đàn ông không biết tên và mua của người này 01 gói ma túy nhỏ với giá 50.000 đ (năm mươi nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, Đ không sử dụng ngay mà đi về nhà. Khi đi đến thôn B, xã X thì bị lực lượng Công an huyện T đang làm nhiệm vụ phát hiện, bắt quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành xác minh người đàn ông là đối tượng đã bán ma túy cho Đ nhưng không có kết quả.

Quá trình điều tra, bị can đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 gói giấy màu trắng dạng giấy báo bên trong chứa ma túy là chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn.

Sau giám định còn lại 0,103g (không phẩy một không ba gam) ma túy (loại heroine) được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T niêm phong trong phong bì dán kín, chuyển từ kho vật chứng Công an huyện T đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T bảo quản theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 26/CT-VKSTX ngày 15/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân đã truy tố bị cáo Lê Quang Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Bị cáo Lê Quang Đ thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã nêu và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Quang Đ phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Về hình phạt đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Quang Đ từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 56, tổng hợp hình phạt 24 tháng tù về tội : “ Mua bán trái phép chất ma túy” của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu đối với bị cáo.

Về vật chứng đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy toàn bộ bao gói mở niêm phong và số ma túy còn lại sau giám định ( 01 phong bì màu trắng trích mẫu sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành ghi “ Phong bì niêm phong mẫu vật vụ Lê Quang Đ”); 02 bơm kim tiêm bằng nhựa, chưa qua sử dụng; 01 lọ thủy tinh chứa dung dịch Novocain 3% ( nước cất).

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 8 giờ 15 phút, ngày 26/01/2021 Lê Quang Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,115g (không phẩy một một năm) gam ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng cá nhân, thì bị phát hiện bắt quả tang.

Bị cáo Lê Quang Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi do cố ý. Do đó, hành vi của bị cáo Lê Quang Đ đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tính chất vụ án là nghiêm trọng; Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây nên tâm lý hoang mang, bất bình trong nhân dân. Ma túy không những làm hủy hoại đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập… ; mà còn là điều kiện nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS. Tình hình tội phạm về ma túy hiện nay đang diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; tội phạm về ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác, đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, xã hội và an ninh trật tự. Bị cáo đã trưởng thành, nhận thức được mức độ sai trái của hành vi bản thân gây ra, nhưng do không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, mà sống buông thả, đã bất chấp pháp luật để phạm tội. Vì vậy cần phải xử lý vụ án nghiêm minh, bắt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân: Bị cáo Đ đã từng phạm tội, chưa chấp hành bản án 24 tháng tù của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh L mà còn phạm tội mới, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ( có Bố mẹ là người có công với cách mạng). Do đó, xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử, xét thấy: cần thiết phải xử phạt bị cáo Lê Quang Đ bằng hình phạt tù như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp. Thời gian bị cáo đã bị tạm giam được tính vào thời gian chấp hành hình phạt. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Đ là đối tượng nghiện chất ma túy, hoàn cảnh khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án:

01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,103g heroine còn lại sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành là vật cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy; 02 bơm kim tiêm bằng nhựa, chưa qua sử dụng; 01 lọ thủy tinh chứa dung dịch Novocain 3% ( nước cất).

Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang được quản lý theo đúng quy định của pháp luật.

[8] Về các tình tiết liên quan đến vụ án:

Bị cáo Đ khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn ông với giá 50.000 đồng; tuy nhiên quá trình điều tra người đàn ông đã bán ma túy cho Đ nhưng không có kết quả, nên không có căn cứ xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo Lê Quang Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 56; khoản 1 Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Tuyên bố bị cáo Lê Quang Đ phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lê Quang Đ 24 ( Hai mươi bốn) tháng tù; tổng hợp với 24 tháng tù chưa chấp hành của bản án số 31/2019/HSST ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh L. Bị cáo Lê Quang Đ phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/01/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 0,105g Heroine còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong ký hiệu “ M” do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành; 02 bơm kim tiêm bằng nhựa, chưa qua sử dụng; 01 lọ thủy tinh chứa dung dịch Novocain 3% ( nước cất).

Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, theo Biên bản giao nhận vật chứng số 39 ngày 15/4/2021.

3. Về án phí: Bị cáo Lê Quang Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về