Bản án 30/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

 BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2021/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS ngày 27/05/2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lù A E; Sinh năm: 1987, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản 1, xã S, huyện Đ, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lù A L (sinh năm 1948) và con bà Vàng Thị T (sinh năm 1948); Vợ: Vàng Thị T1 (đã ly hôn), con: có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2009; Về nhân thân: có 01 tiền án (Bản án số 62/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và xử phạt 12 tháng tù (quyết định bản án áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo), bị cáo không có tiền sự.

Ngày 11/02/2021 bị cáo bị tạm giữ đến ngày 20/02/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Thèn Sin, huyện Tam Đường, nhưng bị cáo bỏ trốn vi phạm nghĩa vụ cấm đi khỏi nơi trú nên ngày 23/4/2021 bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã và bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Những người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: Anh Nguyễn Xuân Ch, sinh năm: 1978 Địa chỉ: Bản C 1, xã T, thành phố C, tỉnh Lai Châu.

(Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/02/2021 khi Lù A E đi bộ trên vỉa hE gần cây xăng số 43 thuộc tổ 26, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Lù A E nhìn thấy bên đường đối diện ngược chiều đi của E có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu đỏ, đang dựng ở dưới lòng đường không có ai trông coi. Lù A E nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy này. E chọn lấy 01 chiếc chìa khóa trong chùm chìa khóa E mang theo để mở khóa xe. Sau khi mở được khóa xe, E điều khiển xe đi về hướng xã San Thàng thì bị anh Nguyễn Xuân Ch (chủ xe) phát hiện đuổi theo tri hô. E vẫn tiếp tục điều khiển xe đến vòng xuyến đi xã San Thàng thì bị tổ công tác của Cơ quan quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu đang làm nhiệm vụ gần đó phát hiện, khống chế bắt quả tang Lù A E và thu giữ chiếc xe máy mà E vừa lấy trộm của anh Nguyễn Xuân Ch. Kết luận định giá tài sản số 05/KLĐG ngày 18/02/2021 của Hội đồng định gía tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Lai Châu kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu đỏ, BKS: 88H9-0691 mua và sử dụng từ năm 2006 có giá trị sử dụng còn lại là 3.250.000 đồng (Ba triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Lù A E đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Các vấn đề khác của vụ án:

Cáo trạng số 13/CT - VKSTP ngày 29/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Lù A E về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận định giá tài sản mà bị cáo trộm cắp và Quyết định truy tố nêu trên.

Bị hại anh Nguyễn Xuân Ch đã được nhận lại tài sản bị mất nên trong quá trình điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa đều không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1Điều 51, điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lù A E từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/4/2021, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đó.

Áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Xuân Ch không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì. Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng của vụ án: là 01 chùm chìa khóa gồm 02 chiếc chìa khóa cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lù A E không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Lù A E đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/02/2021 tại tổ 26, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, Lù A E lợi dụng sơ hở của anh Nguyễn Xuân Ch trong việc quản lý tài sản đã có hành vi trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu đỏ, BKS: 88H9-0691, có giá trị sử dụng còn lại là 3.250.000 đồng (Ba triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) của anh Nguyễn Xuân Ch, nhằm mục đích tư lợi cá nhân.

Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Lù A E là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi đó xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lai Châu.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Lù A E cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:…” Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản và phải đi chấp hành án, chịu sự giáo dục nghiêm khắc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1Điều 51Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự (điểm “h, tái phạm...”).

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ nghiêm khắc để giáo dục, răn đe giúp bị cáo cải tạo thành người công dân có ích cho xã hội. [4] Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo là lao động tự do, công việc và thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng của vụ án: là 01 chùm chìa khóa gồm 02 chiếc chìa khóa (trong đó 01 chiếc có ký hiệu Honda và 01 chiếc còn lại có ký hiệu EVERGOOD), là công cụ bị cáo dùng để thực hiện tội phạm nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Xuân Ch không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Lù A E phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lù A E 10 (Mười) tháng tù. Bị cáo được khấu trừ 09 ngày tạm giữ (từ ngày 11/02/2021 đến 20/02/2021), còn phải chấp hành 09 (chín) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn hình phạt tù tính từ ngày 23/4/2021.

3. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu, tiêu hủy 01 chùm chìa khóa gồm 02 chiếc chìa khóa (trong đó 01 chiếc có ký hiệu Honda và 01 chiếc còn lại có ký hiệu EVERGOOD) (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 04/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm .

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo lên tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 30/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về