Bản án 30/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ THIỆN, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 30/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Thiện xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2020/TLST- HS ngày 13/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-HS ngày 11/11/2020 đối với bị cáo:

Rmah T, S năm: 1999; tại Gia Lai; Nơi cư trú: thôn Plei K, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Jrai  ; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Kpă G, S năm 1979; Con bà: Rmah H’N, S năm 1984; Bị cáo có 03 anh chị em ruột, bị cáo là con lớn trong gia đình; hiện cha mẹ, anh chị em đang S sống tại thôn Plei K, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 16/7/2014 bị Công an huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 2.500.000 đồng về hành vi Xâm hại đến sức khỏe người khác; Rmah T chưa nộp phạt xong.

Rmah T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2020 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Siu G, S năm: 1992:

Trú tại: thôn Plei K, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Siu B, S năm: 2000:

Trú tại: thôn Plei K, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

+ Anh Ksor Ta, S năm: 2000:

Trú tại: thôn Plei K, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

+ Anh Ksor S, S năm: 1995:

Trú tại: thôn Plei M, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai (có mặt).

+ Anh Rmah K, S năm: 1998:

Trú tại: thôn Plei M, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai (có mặt).

+ Anh Ksor L, S năm: 1996:

Trú tại: thôn Plei K, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Rmah T: bà Bùi Thị Phượng - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước số 01 tỉnh Gia Lai (có mặt).

- Người phiên dịch: Ông Rcom Pu; Trú tại: Tổ dân phố 15, thị trấn Phú Thiện, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h00’ngày 23/4/2020, Rmah T trú tại thôn Plei K, xã I, huyện P, tỉnh Gia Lai đến nhà Siu Bok (cùng thôn) để uống rượu, uống được một lúc thì hết rượu, nên T đi mua rượu về uống tiếp. Trên đường đi gần đến quán tạp hóa của chị Nguyễn Thị Hạt ở cùng thôn, T gặp Ksor Ta đang dừng xe mô tô trước khu vực quán tạp hóa và một nhóm nam thanh niên khác cầm theo dao trên tay; thấy đông người nên T nói về phía Ta “Chúng mày chờ ở đây định đánh tao à” thì có một người trong nhóm thanh niên nói lại “Ừ, đúng đấy”; nghe vậy, T bực tức nên nói lại “Chúng mày đợi ở đây để tao về lấy dao”, rồi T điều khiển xe mô tô về nhà và nhóm thanh niên trên cũng bỏ đi. Sau đó, T đi về nhà lầy 01con dao tự chế và lấy điện thoại gọi cho Rmah K nói “Bạn qua Plei K giúp mình, mình bị người ta đánh”, nghe vậy K đồng ý, khi đi K cầm theo 01con dao để phòng thân và rủ thêm Ksor S đi cùng. T hẹn K và S đến khu vực quán tạp hóa chị Hạt; do sợ T quay lại đánh nên Ta lấy điện thoại gọi cho Siu G và Siu B đến giúp đỡ. Khoảng 23h00’cùng ngày, T quay lại khu vực quán tạp hóa; thấy T cầm dao nên Ta bỏ chạy ra phía bờ mương gần đó, lúc này B và G vừa đến, B dừng xe đứng nói chuyện với Ta còn G đi đến vị trí của T cầm khúc cây ném trúng đầu T; bực tức, T cầm dao xông đến đuổi chém G, S thấy đánh nhau nên sợ bỏ chạy, còn K thấy G bỏ chạy nên cũng không tham gia đuổi đánh G. T đuổi được một đoạn thì đuổi kịp và dùng dao mang theo trước đó chém nhiều phát trúng người G; bị chém, G vùng bỏ chạy nên T không đuổi chém nữa. Sau đó, nhóm của T và nhóm của Ta đi về, G được người nhà đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai, đến ngày 04/5/2020 được xuất viện.

Anh Siu G làm đơn yêu cầu giám định tổn hại sức khỏe và yêu cầu khởi tố vụ án. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh, khám nghiệm hiện trường đồng thời Quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe đối với anh Siu G.

Tại Giấy chứng nhận thương tích số 194 ngày 02/6/2020 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai, xác định thương tích của Siu G: Vết thương phức tạp mặt sau cánh tay trái kích thước # 36cm x 10cm, đứt bán phần gân cơ Ta đầu cánh tay trái; Vết thương ngón 2,3,4,5 bàn tay phải, kích thước vết thương mỗi ngón # 3cm, đứt gấp sau ngón 2, đứt gân gấp nông + sâu ngón 3,4; Hai vết thương phức tạp vai phải:

Một vết kích # 15cm x 5cm đứt cơ trên vai và một vết ở 1/3 giữa vai phải kích thước # 26cm x 7cm, đứt cơ trên và dưới vai; Gãy hở xương bả vai phải.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 114 ngày 10/6/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Gia Lai, kết luận thương tích của Siu G: Một sẹo vết thương phần mềm nằm dọc từ giữa cầu vai phải xuống xương bả vai phải kích thước (19x01)cm, sẹo liền; Một vết thương phần mềm nằm dọc từ mỏm vai phải xuống bờ ngoài xương bả vai phải kích thước (13x0,8)cm, sẹo liền; Một vết thương phần mềm mặt sau cánh tay trái kích thước (26x0,9)cm, sẹo liền, lồi; Một sẹo vết thương phần mềm mặt lòng liên đốt 2-3 ngón II bàn tay phải kích thước (2,5x0,2)cm, sẹo liền; Một sẹo vết thương phần mềm mặt lòng đốt 1-2 ngón III bàn tay phải kích thước (3,5x0,5)cm; Một sẹo vết thương phần mềm mặt lòng 2 đốt ngón IV bàn tay phải kích thước (2x0,2)cm, sẹo liền; Một sẹo vết thương phần mềm mặt lòng liên đốt 1-2 ngón V bàn tay phải kích thước (2x0,2)cm, sẹo liền; Gãy ngành ngang xương bả vai phải đã kết hợp xương; Vết thương đứt gân gấp ngón II bàn tay phải gây cứng khớp liên đốt 2-3 ngón II tay phải; Vết thương đứt gân gấp ngón III bàn tay phải gây cứng khớp liên đốt ngón III; Vết thương đứt gân gấp ngón IV bàn tay phải gây cứng khớp liên đốt ngón IV bàn tay phải. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra tại thời điểm giám định là 30% (Ba mươi phần trăm).

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ thu thập được, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Thiện ra Lệnh bắt bị can để tạm giam, quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Rmah T về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra, Rmah T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đối với Rmah K và Ksor S, biết Rmah T bị người khác đánh nên đồng ý đến giúp. Tuy nhiên khi đến nơi thì T đã chém anh G; K và S không biết trước việc T sẽ cầm dao chém Siu G; quá trình đuổi chém G thì K và S không hô hào, kích động, giúp sức và không tham gia cùng T chém anh G. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với K và S.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra tạm giữ, 01con dao dài 76cm (lưỡi bằng kim loại dài 53cm, đầu nhọn, bản rộng 04cm, cán bằng gỗ dài 23cm có quấn băng keo màu đen, đường kính cán dao 03cm) do T giao nộp.

Về dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo T tác động gia đình bồi thường cho anh Siu G được số tiền 23.000.000 đồng, tại cơ quan điều tra anh G và bị can thỏa thuận bồi thường số tiền 91.000.000 đồng; nhưng tại phiên tòa anh G và bị cáo thỏa thuận bồi thường thêm số tiền 50.000.000 đồng, đến nay chưa bồi thường thêm được khoản tiền nào.

Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Rmah T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 02 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 02 Điều134; điểm b, s khoản 01, khoản 02 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo T mức án từ  02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Tại phiên tòa người bào chữa phát biểu, việc truy tố, xét xử bị cáo về tội danh và điều luật là hoàn toàn đúng theo quy định, người bào chữa không có ý kiến gì:

nhưng đề nghị Hội đồng xem xét cho bị cáo T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số nên nhận thức còn nhiều hạn chế, đã tự nguyện bồi thường một phần dân sự cho người bị hại và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo T 18 tháng tù; về dân sự và tang vật người bào chữa đồng ý quan điểm của đại diện Viện kiểm sát.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Tối ngày 23/4/2020, Rmah T gặp Ksor Ta trước quán tạp hóa của chị Nguyễn Thị Hạt ở thôn Plei K, xã I, huyện P. Tại đây, do hiểu nhầm việc Ta có thái độ thách thức mình nên bị cáo T về nhà lấy 01con dao đồng thời lấy điện thoại gọi cho Rmah K và Ksor S nói mình bị đánh và nhờ K, S đến giúp; lo sợ T quay lại đánh mình, nên Ta có gọi Siu G đến giúp. Nên khoảng 23h00’cùng ngày, thấy nhóm của T quay lại khu quán tạp hóa chị Hạt và mang theo dao nên Ta bỏ chạy, còn anh G cầm khúc cây ném trúng đầu T; bực tức, T cầm dao đuổi theo chém anh G nhiều phát. Hậu quả làm anh Siu G bị thương tích 30%.

Sau khi bị đánh, anh G được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai, đến ngày 04/5/2020 thì xuất viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 114 ngày 10/6/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Gia Lai kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra tại thời điểm giám định là 30% (Ba mươi phần trăm).

Lời khai của bị cáo T tại phiên tòa là phù hợp với hồ sơ khởi tố truy tố đối với bị cáo, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ lên quan việc hai bên do hiểu nhầm, do bực tức anh G cầm khúc cây ném trúng đầu bị cáo trước, nên bị cáo có cầm dao đuổi chém anh G bị thương tích; hành vi cố ý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương; nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Thiện truy tố bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Chỉ vì một mâu thuẫn không đáng để xẩy ra hành vi vi phạm pháp luật, mà bị cáo đã đuổi chém anh G; hậu quả làm anh G bị thương tổn hại 30% sức khỏe; xét hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều bị xử lý theo quy định. Lẽ ra các bị cáo phải nhận thức được rằng khi đã uống rượu vào rồi, thì sự kiểm soát tất cả mọi hành vi của mình sẽ thiếu kìm chế, đúng ra khi đi mua rượu về uống tiếp rồi sau đó về nhà nghỉ thì không có hậu quả đáng tiếc xảy ra, nhưng chính bị cáo lại nói như thách thức với anh Ta, nên hai bên đã nói qua lại, sau đó bị cáo về lấy dao chém anh G để chứng tỏ cái tôi của bị cáo; hành vi của bị cáo thể hiện sự côn đồ, ngông cuồng coi thường sức khỏe người khác, đã xâm phạm đến trật tự trị an tại địa phương.

Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ vụ án, cũng như lời khai của người bị hại và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa; sau khi anh G bị thương tích, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho anh G được số tiền 23.000.000 đồng; bị cáo và anh G thỏa thuận bồi thường thêm số tiền 50.000.000 đồng, nhưng đến nay chưa bồi thường thêm được khoản tiền nào. Xét bị cáo chưa có tiền án, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số nên nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế; bị cáo phạm tội cũng do một phần lỗi của người bị hại đã ném khúc cây trúng đầu bị cáo, nên Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 01; khoản 02 Điều 51của Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt. Song cũng cần lên cho bị cáo mức án tù cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời răn đe phòng ngừa chung.

[3] Việc tuân theo pháp luật, trong quá trình tố tụng để giải quyết vụ án Cơ quan khởi tố - truy tố đã thực hiện đầy đủ đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, mức án đề nghị, thỏa thuận về dân sự xử lý tang vật và án phí phải chịu; Hội đồng xét xử xét mức án của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp đối với bị cáo.

[5] Xét đề nghị mức án của người bào chữa đối với bị cáo Hội đồng xét xử sẽ xem xét.

[6] Đối với Rmah K và Ksor S, nghe T nói bị người khác đánh nên đồng ý đến. Tuy nhiên K và S không biết T sẽ cầm dao chém Siu G; quá trình T đuổi chém G thì K và S không hô hào, kích động, giúp sức và không tham gia cùng T chém G. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Rmah K và Ksor S là có căn cứ; nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về tang vật vụ án: Gồm 01con dao dài 76cm (lưỡi bằng kim loại dài 53cm, đầu nhọn, bản rộng 04cm, cán bằng gỗ dài 23cm có quấn băng keo màu đen, đường kính cán dao 03cm); xét không còn giá trị xử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về dân sự: Quá trình điều tra bị cáo và gia đình đã bồi thường cho anh G số tiền 23.000.000 đồng; bị cáo và anh G thỏa thuận bồi thường thêm số tiền 50.000.000 đồng; Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của các bên và căn cứ theo điểm f khoản 01 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì bị cáo không phải chịu án phí dân sự khi bồi thường.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Rmah T phạm tội “Cố ý gây thương tích”:

Áp dụng điểm d khoản 02 Điều 134; điểm b, s khoản 01và khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử: Rmah T 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/6/2020. Áp dụng điểm a khoản 01 Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự:

Áp dụng khoản 01; Điểm c khoản 02 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Áp dụng Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật Dân sự.

+ Buộc: Rmah T phải bồi thường cho anh Siu G số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng người phải thi hành án (bên có nghĩa vụ) chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, được quy định theo Điều 357 Bộ luật dân sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01con dao dài 76cm (lưỡi bằng kim loại dài 53cm, đầu nhọn, bản rộng 04cm, cán bằng gỗ dài 23cm có quấn băng keo màu đen, đường kính cán dao 03cm).

(Toàn bộ vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2020, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Thiện và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự:

Áp dụng điểm a, f khoản 01 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016:

Buộc: Rmah T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/11/2020); bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã phường nơi cư trú, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét sử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hánh án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:30/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Thiện - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về