Bản án 30/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 30/2020/HS-ST NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2020/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐXXST- HS ngày 03/02/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn T, sinh ngày 21/01/1987 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Thôn Chi Chỉ, xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ý và bà Nguyễn Thị Lử; có vợ là Đào Thị Bảy và có 03 con; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Bản án số 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 Toà án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt Nguyễn Văn T 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giam trong vụ án khác từ ngày 11/10/2019 đến nay (có mặt).

2. Phạm Văn N (tên gọi khác Lâm Văn N ), sinh ngày 19/8/1997 tại Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Thôn C, xã H, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ và bà Lâm Thị L; vợ con: Chưa có; Tiền án: Không; tiền sự: 01, tại Quyết định số 64/QĐ-XPHC ngày 20/9/2017 Công an huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt hành chính N số tiền 1.500.000,đ về hành vi trộm cắp tài sản, đến nay Phạm Văn N chưa chấp hành việc nộp phạt; nhân thân: Tại Bản án số 134/2015/HSST ngày 17/11/2015 Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt Phạm Văn N 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt trở về địa phương ngày 27/03/2016, thi hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm ngày 22/01/2016; tại Bản án số 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 Toà án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt Phạm Văn N 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giam trong vụ án khác từ ngày 11/10/2019 đến nay (có mặt).

Bị hại: Chi Hội người cao tuổi thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; Đại diện Ông Đỗ Ngọc Cử, sinh năm 1961- Chi hội trưởng; nơi ở: thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên; do bà Phùng Thị Thúy Hiền- Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Thanh Trù- Trưởng Ban quản lý di tích.

Đại diện theo ủy quyền của bà Hiền: Ông Đỗ Ngọc Cử, sinh năm 1961- Thành viên Ban quản lý Đền Bà; nơi ở: thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T và Phạm Văn N (Lâm Văn N ) là bạn bè ngoài xã hội, thường xuyên chơi game cùng nhau. Khoảng 20 giờ ngày 06/10/2019, Tình và N đang chơi game tại quán Hero game, thuộc phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, thì Tình rủ N đi trộm cắp tài sản ở Đền Bà, thuộc thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên để lấy tiền chơi game, N đồng ý. Tình và N đi bộ đến Đền Bà, lúc này khoảng 00 giờ ngày 07/10/2019, do cổng Đền bà đóng cửa nên Tình trèo qua tường vào bên trong Đền, còn N đi bộ đến bến thuyền rồi chèo thuyền đi vào Đền gặp Tình. Do cửa Điện Tam Bảo đóng, nên Tình đi nhặt 01 thanh gỗ dài khoảng 1,2m rồi dùng thanh bẩy 01 cánh cửa bật ra khỏi bản lề. Tình và N mở cửa vào trong Điện Tam Bảo, Tình nhặt khăn mặt trong điện che vào 03 mắt camera rồi đi nhặt tiền ở các ban thờ được tổng số tiền 211.000,đ, Tình quan sát thấy có 01 chiếc két to đựng tiền công đức nên nảy sinh ý định trộm cắp số tiền trong két. Tình đưa cho N số tiền 211.000,đ rồi đi xuống nhà bếp lấy 01 cái cuốc ý định lên để phá khóa két nhưng chưa kịp phá khóa thì thấy có người đi đến, Tình bỏ chạy, còn N bị quần chúng nhân dân bắt giữ đưa về Cơ quan Công an lập biên bản sự việc. Thu giữ của N số tiền 211.000, N khai là tiền N và Tình vừa trộm cắp được ở Đền Bà; thu giữ tại hiện trường 01 cái cuốc, 01 gậy gỗ và 03 chiếc khăn mặt. Quá trình điều tra, Tình và N khai còn nhận đã thực hiện trót lọt 01 vụ trộm cắp tiền tại Đền Bà vào ngày 28/03/2019. Cụ thể: Khoảng 20 giờ ngày 27/03/2019, Tình và N đang chơi game tại quán Hero game thì Tình rủ N đi trộm cắp tài sản ở Đền Bà thuộc thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên, N đồng ý. Tình và N đi bộ Đền Bà là khoảng 01 giờ ngày 28/3/2019, do cổng chính của Đền khóa cửa. Nên Tình dẫn N đi men theo tường rào bên phải của cổng Đền đến một bến thuyền, Tình và N lên chiếc thuyền bằng tôn đậu sẵn ở bến rồi chèo thuyền vào Đền, đến Điện Tam Bảo trộm cắp tài sản. Do cửa vào Điện Tam Bảo đóng, Tình ra vườn nhặt một thanh gỗ dài khoảng 01m bẩy 01 cánh cửa của Điện Tam Bảo lên, rồi nhấc cánh cửa ra, Tình và N cùng đi vào bên trong Điện Tam Bảo nhặt tiền cài trên các ban thờ, do Tình nhìn thấy trong điện có 02 chiếc két sắt để tiền công đức được đặt ở bên phải và bên trái ở ban thờ chính, Tình bảo N đi tìm thấy 01 chiếc kéo kim loại, dài khoảng 30cm đưa cho Tình. Tình dùng chiếc kéo khoét vào mặt trước cánh cửa của két sắt 01 lỗ hở kích thước 02cm-03cm, rồi dùng tay thò qua lỗ hở mở khoá két từ bên trong. Sau khi Tình mở được khoá 02 két, N nhặt hết số tiền trong 02 két để vào 01 túi nilon, còn số tiền lẻ trộm cắp trên các ban thờ Tình và N bỏ 01 túi nilon khác rồi cầm 02 túi nilon đi đến khu vực đường tàu, thuộc phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, Tình và N giở số tiền trộm cắp được trong 02 két sắt ra đếm được 3.000.000,đ, gồm các tờ tiền mệnh giá 10.000,đ, 20.000,đ, 50.000,đ, 100.000,đ, Tình và N chia nhau mỗi người 1.500.000,đ, tiêu xài cá nhân hết. Còn túi nilon tiền lẻ trộm cắp tại các ban thờ gồm mệnh giá 1.000,đ, 2.000,đ, 5.000,đ N và Tình không đếm mà đem đi giấu ở khu vực đường sắt gần trường Trung học phổ thông Nguyễn Thái Học, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, khoảng 05 ngày sau Tình quay lại lấy thì số tiền này đã bị mất.

Ngày 12/10/2019, ông Đỗ Ngọc Cử, đại diện Hội người cao tuổi thôn Vinh Quang có đơn trình báo ngày 28/3/2019 tại Đền Bà, thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên bị kẻ gian đột nhập vào Cung Tam Bảo, cậy phá hai hòm công đức và lấy tiền tại các Ban thờ số tiền bị mất khoảng 20.000.000,đ.

Về tang vật: Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho ông Cử là người đại bị hại số tiền 211.000,đ, 01 cái cuốc, 01 gậy gỗ và 03 chiếc khăn mặt. Đối với chiếc thuyền không xác định được là tài sản của ai; chiếc gậy gỗ và 01 chiếc kéo sắt sau khi phạm tội các bị cáo đã vứt bỏ, các bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội, nhưng do lâu ngày Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra ông Đỗ Ngọc Cử yêu cầu các bị cáo Tình và N bồi thường tổng số tiền 21.200.000,đ (trong đó số tiền mất 20.000.000,đ, tiền sửa chữa két 1.200.000,đ). Quá trình điều tra không có cơ sở để buộc Tình và N phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền ông Cử khai mất tại Đền Bà là 20.000.000,đ. Đối với số tiền lẻ mệnh giá 1000,đ; 2000,đ và 5000,đ, Tình và N trộm cắp trên các Ban thờ của Đền Bà ngày 28/03/2019 nhưng không xác định được tổng số tiền là bao nhiêu, nên ông Cử không yêu cầu bồi thường.

Cáo trạng số 02/CT-VKSTP.VY ngày 10/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn N (Lâm Văn N ) về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn N khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Bị hại do ông Đỗ Ngọc Cử là người đại diện xác nhận lời trình bày tại cơ quan điều tra. Tuy nhiên có thay đổi quan điểm về số tiền bồi thường, do đêm ngày 28/3/2019 ông không biết cụ thể trong két có bao nhiêu tiền, nên nay chỉ yêu cầu các bị cáo phải bổi thường số tiền như Cơ quan điều tra đã chứng minh là 3.000.000,đ tiền mất trong két sắt và 1.200.000,đ là giá trị hư hỏng của 02 két sắt, tổng cộng là 4.200.000,đ Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với các bị cáo, giữ N quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn N về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 58, 55, 56 của Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù tổng hợp với Bản án số: 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc; Phạm Văn N từ 09 tháng đến 12 tháng tù tổng hợp với Bản án số: 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc.

Áp dụng khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 584, 585, 586, 587 589 của Bộ luật dân sự năm 2015: Xác nhận cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho bị hại do ông Cử đại diện nhận lại 02 chiếc két sắt, 01 chiếc cuốc, 01 gậy gỗ 03 chiếc khăn mặt và số tiền 211.000,đ là hợp pháp. Buộc Nguyễn Văn T và Phạm Văn N liên đới bồi thường cho Chi Hội người cao tuổi thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù số tiền 3.000.000,đ trộm cắp trong 02 két sắt ngày 28/03/2019 và số tiền 1.200.000,đ, là giá trị hư hỏng của 02 chiếc két sắt.

Các bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của các bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn N (Lâm Văn N ) tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Trong hai ngày 28/03/2019 và ngày 07/10/2019, tại Đền Bà thuộc thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên, lợi dụng sơ hở ban đêm không có người trông Đền, Nguyễn Văn T và Phạm Văn N đã có hành vi lén lút trộm cắp tổng số tiền 3.211.000,đ trong Điện Tam Bảo. Cụ thể: Lần thứ nhất là khoảng 01 giờ ngày 28/03/2019, Tình và N đột nhập vào điện Tam Bảo của Đền Bà cạy hai két sắt trộm cắp số tiền 3.000.000,đ, số tiền này Tình và N đã chia nhau ăn tiêu hết. Lần thứ hai, khoảng 00 giờ ngày 07/10/2019, Tình và N đột nhập vào điện Tam Bảo của Đền Bà trộm cắp số tiền 211.000,đ thì bị phát hiện, bắt giữ.

Hành vi lén lút trộm cắp tài sản nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn N đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 03 năm tù.

Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn N là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, vai trò của các bị cáo tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Các bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 03 năm tù nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Trong vụ án hai vụ trộm cắp tài sản bị cáo Tình đều có vai trò là người khởi sướng cùng bị cáo N đồng phạm tích cực thực hiện hành vi phạm tội.

Trước khi xét xử các bị cáo tại Bản án số: 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 bị cáo Tình bị Tòa án huyện Yên Lạc xử phạt 09 tháng tù, N bị xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” các bị cáo phạm tội ngày 23/9/2019; bị cáo N có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản đã được xóa án tích, 01 lần bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Mặc dù không bị tính là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng thể hiện các bị cáo là người có nhân thân xấu, các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu sửa rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian, đồng thời tổng hợp hình phạt của Bản án số: 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không bị áp dụng.

[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập gì, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với các bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án: Đối với 02 chiếc két sắt là tài sản của Chi Hội người cao tuổi thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, ngày 28/03/2019 Tình đã dùng kéo cạy 01 lỗ nhỏ phần mặt trước cửa vênh ở vị trí khoá két, có thể sửa chữa và sử dụng được. Kết luận định giá phần hư hỏng của 02 két sắt trị giá là 1.200.000,đ. Hành vi cạy phá cánh cửa két sắt của Tình và N nêu trên có dấu hiệu cố ý làm hư hỏng tài sản, nhưng do giá trị tài sản dưới 2.000.000,đ, nên ngày 20/12/2019, Cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền Tình và N mỗi người 3.500.000,đ là phù hợp.

[5] Về bồi thường dân sự:

Tại phiên tòa đại diện bị hại ông Đỗ Ngọc Cử yêu cầu các bị cáo bồi thường tổng số tiền 4.200.000,đ, các bị cáo nhất trí bồi thường. Nên cần buộc các bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cho Chi Hội người cao tuổi thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù số tiền 1.200.000,đ, là giá trị hư hỏng của 02 két sắt và 3.000.000,đ tiền trong két, tổng cộng là 4.200.000,đ, mỗi bị cáo phải bồi thường 2.100.000,đ.

Đối với số tiền lẻ mệnh giá 1000,đ; 2000,đ và 5000,đ, Tình và N trộm cắp trên các Ban thờ của Đền Bà ngày 28/03/2019 nhưng không xác định được tổng số tiền là bao nhiêu, ông Cử không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong án hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tổng hợp với 09 tháng tù của Bản án số: 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc. Buộc bị cáo Tình phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 11/10/2019).

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt Bị cáo Phạm Văn N (Lâm Văn N ) 11 (mười một) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tổng hợp với 08 tháng tù của Bản án số: 64/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc. Buộc bị cáo N phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 01 (một) năm 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 11/10/2019).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 584, 585, 586, 587, 589, 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Phạm Văn N phải liên đới bồi thường tổng số tiền 4.200.000,đ cho Chi Hội người cao tuổi thôn Vinh Quang, xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên (trong đó mỗi bị cáo có trách nhiệm bồi thường 2.100.000,đ) Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, người có quyền yêu cầu thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, nếu các bị cáo không bồi thường số tiền nêu trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000,đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự trong án hình sự.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về