Bản án 30/2020/HS-PT ngày 07/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 30/2020/HS-PT NGÀY 07/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 32/2020/TLPT-HS ngày 26 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo Vũ Quốc B do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HSST ngày 24/4/2020 của Toà án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

- Bị cáo có kháng cáo: Vũ Quốc B, Sinh năm: 1993; nơi cư trú: Thôn H, xã M, huyện V, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn S, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1971; gia đình có 2 anh em, bị cáo là con lớn; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Chưa có; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 13/12/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên, “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 13/12/2019 lực lượng Công an huyện Văn Giang phối hợp với Ban an ninh khu đô thị Ecopark tiến hành kiểm tra tại hành lang tầng 20 tòa nhà D Westbay - khu đô thị Ecopark thuộc xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, phát hiện Vũ Quốc B có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi quần phía sau bên trái 01 gói giấy bạc bên trong có 05 viên nén màu xanh, hình tam giác kích thước (1,5x1x0,5)cm được niêm phong ký hiệu M và 01 gói nilon màu trắng miệng có khóa dán ép viền màu xanh kích thước (3x3)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu K. Ngoài ra còn thu giữ của B 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 plus màu vàng, bên trong gắn sim số 0917149987 đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Giang khám xét khẩn cấp nơi ở của B ở thôn H, xã M nhưng không thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số: 658/PC09 ngày 16/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ghi K thu giữ của B có khối lượng là 0,962g là ma túy, loại Ketamine. Chất dạng viên nén màu xanh trong niêm phong ghi M thu giữ của Bình có tổng khối lượng là 2,480g là ma túy, loại MDMA.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Quốc B khai số ma túy bị thu giữ là do B mua của người thanh niên tên Cường (chưa rõ họ tên đệm và địa chỉ cụ thể) ở khu vực cổng Trường trung học phổ thông Trần Quang Khải thuộc xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên vào sáng ngày 13/12/2019 để sử dụng. Trước đó khoảng 1 tháng, B có gặp Cường ở quán karaoke tại khu vực huyện Khoái Châu, Cường cho B số điện thoại 0399238883 để liên hệ mua ma túy. Khoảng 09 giờ 39 phút ngày 13/12/2019, B lấy điện thoại của mình số 0917149987 gọi đến điện thoại số 0399238883 của Cường hỏi mua ma túy. Cường đồng ý rồi hẹn B đến khu vực cổng Trường trung học phổ thông Trần Quang Khải lấy ma túy. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, B đi taxi đến điểm hẹn và đưa cho Cường 5.500.000đ, Cường đưa cho B 01 gói giấy bạc bên trong có các viên ma túy dạng Kẹo và 01 gói nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy dạng Kẹo. B cầm 02 gói ma túy cất vào túi quần phía sau bên trái rồi đi taxi đến tòa nhà D, West Bay khu đô thị Ecopark thuê phòng để sử dụng, khi đang đi ở hành lang tầng 20 tòa nhà D thì bị bắt quả tang.

Quá trình điều tra xác định số điện thoại 0399238883 đăng ký tên chị Lê Thị C ở xã Thọ Thế, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, hiện đang cư trú tại thôn Bãi Sậy 2, xã Tân Dân, huyện Khoái Châu. Chị C xác định có dùng số điện thoại nói trên nhưng đến khoảng tháng 6/2019 thì bị mất, không biết ai đã sử dụng số 0399238883, không biết ai tên là Cường ở huyện Khoái Châu. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Giang không xem xét xử lý đối với chị C. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh đối với Cường khi nào rõ, xử lý sau.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HSST ngày 24/4/2020 của Toà án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên:

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Quốc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vũ Quốc B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/12/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Ngoài ra bản án còn quyết định về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 07/5/2020, bị cáo Vũ Quốc B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Bị cáo Vũ Quốc B giữ nguyên nội dung kháng cáo; bị cáo tỏ rõ thái độ ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện cải tạo trở thành người có ích cho xã hội và được trở về với gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên phát biểu quan điểm xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Vũ Quốc B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo B, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, có thái độ thật sự ăn năn hối cải. Bị cáo có ông ngoại (Dương Văn L) là người có công được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Huân chương kháng chiến hạng nhì, theo điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, đã xem xét nhân thân của bị cáo và xử phạt Vũ Quốc B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Tại cấp phúc thẩm bị cáo B không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo B và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của Vũ Quốc B được làm trong thời hạn quy định của pháp luật là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Quốc B thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Sơ đồ hiện trường, Bản kết luận giám định, Vật chứng của vụ án được thu giữ, lời khai của những người làm chứng và lời khai của bị cáo có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 13/12/2019, tại khu vực hành lang tầng 20 tòa nhà D Westbay, khu đô thị Ecopark thuộc xã Phụng Công, huyện Văn Giang. Vũ Quốc B có hành vi cất giữ trái phép trong túi quần đang mặc 05 viên ma túy loại MDMA có tổng khối lượng là 2,480g và 01 gói ma túy loại Ketamine có khối lượng 0,962g thì bị Công an huyện Văn Giang phát hiện bắt quả tang. Bị cáo Vũ Quốc B có hành vi tàng trữ 0,962g ma túy, loại Ketamine và 2,480g ma túy, loại MDMA để sử dụng. Bởi hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Văn Giang đã xét xử Vũ Quốc B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. [3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Quốc B, Hội đồng xét xử xét thấy:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý được luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh các vi phạm và tội phạm khác, do đó cần phải giành cho bị cáo một mức hình phạt thoả đáng, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tội phạm chung.

Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo; áp dụng chính xác, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

Tại cấp phúc thẩm bị cáo B không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ để giảm nhẹ mức hình phạt theo đơn kháng cáo của bị cáo; Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên tại phiên tòa có căn cứ được chấp nhận.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[5] Án phí: Kháng cáo của bị cáo Vũ Quốc B không được chấp nhận, nên bị cáo B phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Quốc B, giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2020/HSST ngày 24/4/2020 của Toà án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đối với bị cáo B như sau:

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Quốc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vũ Quốc B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/12/2019.

2. Về án phí: Bị cáo Vũ Quốc B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HS-PT ngày 07/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về